Nón cối
Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - Cuối đời, Thanh Nam hay làm thơ và viết phiếm cho tờ Đất Mới - xuất bản từ Seattle, tiểu bang Washington. Ông phụ trách mục “Chuyện Quanh Bàn Nhậu,” và có “tha thiết” ngỏ ý mời tôi cộng tác.
Thưở ấy, những năm đầu của thập niên 80, tôi được coi là một “mầm non có văn nghệ có (rất) nhiều triển vọng” nên “được lời như cởi tấm lòng.” Tôi hăm hở gửi đến ông câu chuyện đầu tiên, ghi được quanh bàn nhậu:
Sau tháng 4 năm 1975 không lâu, bộ đội cũng như dân chúng hai miền Nam-Bắc đều muốn “giã từ” nón tai bèo và nón cối. Đội mãi rồi cũng ớn. Đến một lúc - tự nhiên - cả nước cùng chợt nhận ra rằng cả hai loại nón (thổ tả) này trông xấu xí, quê mùa đến độ không còn ai chịu nổi nữa.
Trước tình trạng này, một vị Ủy Viên Trung Ương Đảng bèn có ý kiến rằng nón tai bèo thì cho đi luôn là phải, để lại không những đã bận mắt mà còn có thể làm cho đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nổi giận (hay nổi loạn). Nhưng nón cối thì phải lưu giữ.
Lý do được nêu ra là Đảng ta hoàn toàn không có tương lai, buộc phải sống nhờ vào dĩ vãng (nói cách khác là phải ăn mày dĩ vãng) mà trong chuyện lễ lạc rầm rộ để tưởng niệm những chiến thắng xa xưa thì rất cần nón cối. Thiếu nó "cách mạng" sẽ mất đi vẻ truyền thống.
Từ đó, ở Việt Nam có Viện Lưu Trữ Nón Cối. Làm giám đốc cái viện này - tất nhiên - không có cơ hội xà xẻo, móc ngoặc hoặc tham nhũng nhưng được cái là an nhàn và (chắc chắn) an thân. Ai cũng tưởng vậy mà không phải vậy.
Một hôm, Cục Tình Báo Hải Ngoại bỗng phát hiện ra cả trăm ngàn cái nón cối đã bị mang ra nước ngoài, và được xử dụng thường xuyên trong những cộng đồng người Việt tị nạn. Thế là vị giám đốc bị đưa ra toà, với tội danh “hoạt động gián điệp, tạo điều kiện cho kẻ địch xâm nhập vào hàng ngũ Đảng...
Thiệt là oan ức. Sự thực, số nón cối thất thoát đã không rơi vào tay bất cứ một tổ chức nào tại hải ngoại mà đều được mua lại bởi những cửa hàng chuyên buôn bán những vật dụng dùng cho việc thủ dâm.
- Đừng có giễu dở nha, cha nội. Trong vụ này nếu nghèo óc tưởng tượng và cần “tiếp thị” (visual aid) thì người ta mua báo Play Boy hay đồ lót của phụ nữ ở Secret’s Victoria chớ ai nhìn tới cái nón cối làm chi. Coi ghê thấy mẹ.
- Nói như vậy là biết một mà không biết hai. Thủ dâm có tới hai kiểu chớ không phải một.
- Thiệt vậy sao?
- Chớ sao, khi không có người bạn tình (sexual partner) bên cạnh mà có nhu cầu giải quyết những “bức xúc” sinh lý thì người ta mới nhìn vào (hoặc hình dung ra) một hình ảnh gợi dục nào đó để thủ dâm bằng tay. Còn khi muốn chống cộng quá cỡ mà dân làng Ba Đình Hà Nội ở quá xa, với không tới thì người ta dùng tới nón cối. Cứ chụp đại lên đầu bất cứ một thằng cha con mẹ nào đó, đang đứng sớ rớ ở kề bên – hô hoán lên nó là cộng sản - rồi nhào vô đánh đấm túi bụi, chửi rủa xối xả cho nó... đã (miệng). Đó là một hình thức “thủ dâm” để thoả mãn nhu cầu tâm lý!
Sau khi đọc xong, Thanh Nam xé mấy trang bản thảo làm tư và vứt vào sọt rác. Trông ông (bỗng) nghiêm và buồn thấy rõ:
- Chụp mũ là một thảm kịch của chúng ta, không phải là một chuyện đùa. Nếu chú quan tâm đến vấnnạn này thì phải bỏ thời giờ suy nghĩ, tìm hiểu để viết một bài báo nghiêm chỉnh. Đâu phải chuyện gì cũng mang ra để cười giỡn được. Nói chú đừng tự ái chứ chuyện chú viết tôi cười... không nổi, nó chỉ khiến tôi buồn, và buồn... muốn chết!
Rồi ông qua đời thật, không lâu, sau đó. Tôi ở lại hụt hẫng, thôi la cà quanh bàn nhậu nhưng vẫn uống lai rai, và (thường) uống mình ên. Đôi lúc, khi chuyếnh choáng, tôi vẫn nghĩ đến những câu thơ - đẫm nước mắt và hơi men - Thanh Nam viết lúc cuối đời, và món nợ về “thảm kịch chụp mũ” (vẫn) chưa thanh thỏa được với ông.
Có thời gian (ngăn ngắn) tôi làm xướng ngôn viên, trong một trại tị nạn, ở Thái Lan. Công việc hàng ngày chấm dứt đúng vào lúc 10 giờ tối, với thông báo cuối của ban phát thanh, như sau:
“Đồng hồ của phòng thông tin chúng tôi bây giờ là 10 giờ tối, xin mọi người vui lòng trở về lô lều của mình, và điều chỉnh mọi âm thanh vừa đủ nghe để khỏi làm phiền người bên cạnh, đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi. Kính chúc đồng bào một đêm an lành và ngon giấc.”
Tôi luôn luôn cảm thấy có đôi chút ngập ngừng ở câu nói cuối cùng. Vào thời điểm đó, suốt những năm dài của cả thập niên 1980, không ai trong số hàng triệu người Việt ở khắp những trại tị nạn Á Châu (kể cả những đứa bé thơ) có được một giấc ngủ bình thường - nói chi đến chuyện “an lành” hay “ngon giấc.” Những cơn ác mộng của những kẻ hốt hoảng, bồng bế dắt díu nhau bỏ chạy khỏi quê hương, đều gần giống như nhau: bị săn đuổi, bắt bớ, đánh đập, hãm hiếp, lạc lõng đói khát giữa biển trời bao la, hay bị chìm thuyền giữa đại dương giông bão...
Sau mộng mị, chúng tôi thường thức giấc giữa khuya - toát đẫm mồ hôi vì sợ hãi và mệt nhọc – nằm định thần một lát rồi... thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra rằng mình đã thoát, và (chỉ) vừa trải qua một giấc mơ! Mộng dữ như thế thưa dần, với thời gian, rồi dứt hẳn nơi phần lớn những người tị nạn - nhất là sau khi cuộc sống của họ đã tạm ổn định nơi vùng đất mới.
Tiến trình bình thường này, tiếc thay, không xẩy ra cho tất cả mọi người. Với số người còn lại, thỉnh thoảng, họ vẫn cứ tiếp tục bị mộng mị và những hồi ức hãi hùng theo đuổi. Một số ít hơn nữa thì sống hoàn toàn bình thường và an lành một thời gian, rồi bỗng dưng lại bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng hay những hồi tưởng về những kinh nghiệm khủng khiếp mà họ đã trải qua.
Trường hợp sau, có tên gọi là hội chứng PTSD (Post Traumatic Stress Disorder) With Delay Onset. Theo DSM - IV - TR (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition. Text Revision. Washington, DC, American Psychiatric Association, 2000 - cẩm nang của khoa Tâm Thần Học) thì dù “phát chậm” (delay) hay không, Hậu Chấn Thương Tâm Lý đều có nguyên nhân từ những biến cố kinh hoàng – ngoài sức chịu đựng bình thường của con người – thường xẩy ra nơi chiến trận, hay khi chúng ta là nạn nhân của sự bạo hành, hãm hiếp, cướp bóc, tù đầy, khủng bố, tra tấn …
Ngoài ác mộng và những hồi tưởng như thật, DSM - IV - TR cũng liệt kê đến những hội chứng khác nữa của PTSD như: nghi ngại thái quá, bất an, lãnh đạm (hypervigilance, sense of foreshortened future, feelings of detachment from others, sđd, trang 468).
Có đến mười phần trăm dân số Việt Nam (hay hơn nữa) đã trải qua cảnh vượt biên, tù đầy – hoặc cả hai. Số còn lại, nếu không bị thương tích hay tai họa gây ra do bom đạn trong thời chiến, đều phải chịu dựng những kinh nghiệm sống (rất) bất thường khác dưới chế độ cộng sản: cải cách ruộng đất, kiểm thảo, đấu tố, vượt tuyến, di cư, di tản, đổi tiền, kiểm kê tài sản, thi hành nghĩa vụ lao động, đi kinh tế mới... Dân Việt, ở thời đại này, có vô số “cơ hội” để mắc chứng Hậu Chấn Thương Tâm Lý!
Đôi lúc, tôi trộm nghĩ dân tộc mình đang bị “PTSD tập thể”. Nếu không, làm sao giải thích được sự nghi ngại thái quá (hypervigilance) của cả một cộng đồng như vậy – ở hải ngoại. Trong ánh mắt của chúng ta, tha nhân (dườngnhư) ai cũng đang đội cái nón cối trên đầu, hay có vẻ như đang dấu một cái đuôi hay một cái gì đó sau lưng.
Thái độ e ngại dè dặt này – có thể – khiến cho một số người “yên tâm” hơn nhưng (chắc chắn) không làm cho chúng ta vững mạnh hơn, nếu chưa muốn nói là ngược lại.
Tặng bạn Phạm Ngọc Cương, ứng cử viên dân biểu hạ viện Ontario, Canada.
Post a Comment