Đất nước nhìn từ Kuala Lumpur
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - Không được lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để chống phá nhà nước - Phó Chủ Tịch Quốc Hội Tòng Thị Phóng
Tôi có chút giao tình với nhà biên khảo Đỗ Hải Minh. Ông tên thật là Dohamide Abu Talib, sáng lập viên của Hiệp Hội Chàm Hồi Giáo Việt Nam - một tổ chức đã bị nhà đương cuộc Hà Nội giải thể sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nhờ vào những công trình biên soạn công phu và thấu đáo của Dohamide Abu Talib nên sự hiểu biết của tôi về đạo Hồi (*) thêm được phần nào khách quan và chính chắn. Những điều răn dậy của kinh Qur’an rất nhân bản và thực tiễn:
- Vinh danh và kính trọng cha mẹ
- Bố thí rộng rãi cho người nghèo
- Bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi
- Trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
- Khiêm tốn
- Cư xử công bằng với mọi người
- Tôn trọng quyền của người khác
....
Đến Malaysia, tôi mới được tận mắt nhìn thấy cách “cư xử công bằng” và “tôn trọng quyền của tha nhân” của những tín đồ Islam đối với những tôn giáo khác – dù điều luật thứ nhất của kinh Qu’ran là “chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (Allah) thôi.
Có hôm, đang ngơ ngác giữa thủ đô của đất nước này tôi thoáng thấy một mùi hương quen thuộc. Phải mất đến vài giây mới nhận ra là khói nhang Ấn Độ mà mình đã từng biết, khi đi qua những ngôi Chùa Chà ở quê nhà. Ở Kuala Lumpur – ngay góc đường Jalan Sehala và Jalan Pudu Lama – có một cái đền thờ nhỏ xíu xiu hà, nó nhỏ đến độ người ta phải đặt màn hình để cho số tín đồ đứng tràn ra bên ngoài nhìn thấy được cảnh hành lễ bên trong.
Tôi nghĩ rằng nơi đây chắc phải “thiêng” ghê lắm nên thiên hạ mới tụ tập đông đúc tới cỡ này. Nhưng chỉ vài phút sau, sau khi dạo quanh khu Phố Tầu, tôi mới biết là không phải vậy.
Giữa China Town thì sự hiện diện của chùa Tầu không phải là chuyện lạ. Điều lạ là cạnh đó (bên kia đường Laluan Sehala) lại có thêm một cái Chùa Chà khác, rất nguy nga, và cũng vô cùng tấp nập – dù ở Malaysia chỉ có chừng sáu phần trăm dân số là người Ấn Độ hay gốc Ấn. Cách đó không xa là Wisma Methodist Church, với thập tự giá cao vút trên không.
Thảo nào mà Kuala Lumpur có danh hiệu là The City of Contrast and Diversity. Tôi không chỉ kinh ngạc về sự tương phản và đa dạng của thủ đô Mã Lai mà còn choáng ngợp về nét tân kỳ và thanh nhã của thành phố tráng lệ này. Cũng như Singapore, Kuala Lumpur cho tôi thấy một Đông Nam Á khác: văn minh, an bình, và nhiều triển vọng – điều mà tôi không nhìn ra trong những ngày tháng sống ở Manila, Phnom Penh, Vientiane, hoặc Rangoon. Ngay ở Bangkok (nơi phồn thịnh hơn thấy rõ) những dòng xe di chuyển như kiến bò, hay những con kinh nước chẩy lừ đừ vì ô nhiễm, khiến tôi cảm thấy rất bất an khi nghĩ đến tương lai của thủ đô nước Thái.
Ảnh chụp tháng 1 năm 2018
Theo Wikipedia:
Kể từ khi độc lập, Malaysia trở thành một trong những nước có hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song quốc gia cũng phát triển các lĩnh vực khoa học, du lịch, thương mại hay du lịch y tế. Ngày nay, Malaysia có một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, có GDP danh nghĩa xếp thứ ba tại Đông Nam Á (10,756.00 USD) và xếp thứ 29 trên thế giới.
Đáng trân trọng hơn hết là nét hài hoà và sự bao dung của Kuala Lumpur. Ở đây, dù tận lực phát triển nhưng con người vẫn rất nương nhẹ và sống hài hoà với thiên nhiên. Dưới chân một công trình kiến trúc kỳ vỹ (K.L Tower, ngọn tháp truyền thông cao nhất Đông Nam Á – 1,381 feet – đặt trên nền của 50 ngàn mét khối xi măng cốt sắt) vẫn có bảng cảnh báo là “đừng cho khỉ thức ăn.” Thú hoang vẫn còn chốn nương thân giữa vô số những cao ốc vươn cao chót vót đến tận trời xanh.
Bảng cảnh báo (“Do not feed the monkey”) dưới chân tháp Kuala Lumpur Tower
Cũng nơi đây, dù Allah được coi là đấng Thượng Đế tối cao duy nhất (và hiến pháp Malaysia thừa nhận đạo Hồi là quốc giáo) dân Mã Lai vẫn mở rộng vòng tay chào đón tất cả những tôn giáo khác: Phật Giáo, Công Giáo, Ấn Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo...
Tưởng cũng nên nói thêm: từ tháng 8 năm 1978 đến tháng 10 năm 1991, đã có 250 ngàn người Việt Nam tị nạn cộng sản tìm đến Mã Lai, và được cho tạm trú ở Pulau Bidong trong một thời gian không ngắn. Ân tình này cần phải được ghi nhận và luôn ghi nhớ.
Sự bao dung của thiên hạ khiến tôi vô cùng cảm động, và không khỏi trạnh lòng nghĩ đến phần quê hương bất hạnh của mình.
Trong bản dự thảo Nhận Định Tuyên Bố Về Nhân Quyền Đầu Năm 2018, đọc được trên trang Tiếng Dân (hôm 22 tháng 1 vừa qua) có đoạn nhận định như sau:
“Việc sách nhiễu, vu khống, hăm dọa đan viện Thiên An tại Thừa Thiên-Huế, nhất là cuộc tấn công phá hủy Thánh giá, biểu tượng đức tin Công giáo, và hành hung các đan sĩ ngày 28 và 29-06-2017. Tất cả đều nhằm ý đồ tước đoạt đất đai của họ. Chúng tôi cũng phản đối việc tấn công nhiều Giáo xứ tại Giáo phận Vinh (như Phú Yên, Song Ngọc, Văn Thai, Đông Kiều, Kẻ Gai, Phúc Lộc) trong năm 2017; việc ngăn chận nhiều chức sắc Phật giáo Thống nhất và Công giáo cầu nguyện chung nhân Ngày Nhân quyền 10-12-2017, việc cản trở Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy cử hành đại lễ Đản sanh Đức Huỳnh Giáo chủ ngày 11-01-2018, việc bắt cóc Mục sư Đoàn Văn Diên từ ngày 24-12-2017, việc sách nhiễu chánh trị sự Hứa Phi tại Lâm Đồng từ hôm 12-01-2018…”
Hai hôm sau, RFA ái ngại loan tin:
“Tòa án Nhân dân tỉnh An Giang vào sáng ngày 23 tháng Một đã tuyên án 12 năm tù đối với một cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo thuần túy là ông Vương Văn Thả, với cáo buộc theo Điều 88 Bộ luật Hình sự, ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’. Ông Vương Văn Thả, cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo thuần túy, ngụ tại tỉnh An Giang, là một cựu tù nhân lương tâm. Ông Thả từng bị kết án 3 năm tù hồi năm 2012 với cáo buộc ‘Lợi dụng tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích của tổ chức, công dân’, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự Việt Nam, và mãn án vào hồi đầu tháng 10 năm 2015.
Vào dịp Tết Nguyên Đán năm Đinh Dậu, ông Vương Văn Thả bắt đầu lên tiếng trên mạng xã hội về hoàn cảnh và chính kiến của ông đối với chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Cả gia đình ông Vương Văn Thả, gồm 9 người bị lực lượng công an, cảnh sát cơ động…bao vây cô lập trong thời gian gần 2 tháng, cho đến ngày 18 tháng 5 năm 2017, ông Vương Văn Thả cùng người con trai và hai người cháu song sinh bị bắt."
Ông Vương Văn Thả (giữa) bị bắt hồi Tháng Năm, 2017.
Ảnh: Facebook Lê Văn Sơn
Ảnh: Facebook Lê Văn Sơn
Qua ngày sau, ngày 24 tháng 1, nhật báo Người Việt cho biết thêm chi tiết:
“Không biết đọc, không biết viết vì không được đi học nhưng hai ông Nguyễn Nhật Trường và Nguyễn Văn Thượng 32 tuổi, là anh em sinh đôi, vẫn bị Tòa Án Nhân Dân tỉnh An Giang tuyên án 6 năm tù giam về tội ‘Tuyên truyền chống nhà nước’. Trong cùng phiên tòa diễn ra vào ngày 23 Tháng Giêng, ông Vương Văn Thả bị tuyên phạt 12 năm tù, con trai ông là Vương Thanh Thuận lãnh án 7 năm tù. Trang Phật Giáo Hoà Hảo Thuần Túy xác nhận cả bốn bị cáo trong vụ này đều là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo ...”
Ông Vương Văn Thả cùng hai con, và những người đồng đạo chắc chắn sẽ được sống yên lành (thay vì phải lâm vào cảnh tù đầy) nếu họ có cơ hội được sống ở một quốc gia nào khác – ngoài Việt Nam – như Malaysia chả hạn. Tôi còn trộm nghĩ thêm rằng sở dĩ đất nước này giàu có, phú túc, và an bình không chỉ vì có nhiều tài nguyên thiên nhiên mà còn vì ngân qũi quốc gia của họ không bị ăn cắp và cũng không phải chi dùng cho việc đàn áp nhân quyền hay bách hại tôn giáo – như ở quê mình.
1/2/2018
________________________________________
Chú thích:
(*) Theo Wikipedia: “Hồi giáo (tiếng Ả Rập: الإسلام al-'islām), còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham.” Nhà biên khảo Dohamide Abu Talib (Đỗ Hải Minh) cho chúng tôi biết thêm rằng người Việt chúng ta đã quen dùng hạn từ Hồi Giáo rồi, dù sự thực từ “hồi” theo đúng nghĩa thì chỉ là tôn giáo của tộc Hồi theo đạo Islam ở bên Tàu thôi nên dịch Islam là Hồi Giáo chung chung thì e hơi gượng ép.
Post a Comment