Bút ký của một ông lái tàu bay lên thẳng
Phương Toàn
Mấy anh em tôi đều khù khờ như nhau. Tân Ngố, thằng em kế từ Cali gọi điện thoại hỏi:
- Anh có biết gì về chương trình Viết về nước Mỹ của Việt Báo không?
- Có nghe nhưng không rành mấy.
Nó gạ nếu có rảnh, viết bài gửi sang, nó ký tên, gửi. Lỡ trúng giải, nó ở gần, đại diện lãnh và xài giùm cho.
Tôi nói, bài đăng báo là để cho người viết hay, tôi sang đây, tối ngày đi chôn ống cống, biết gì mà viết với lách. Nó động viên:
- Có nhiều người viết hay, nhưng hay kiểu mèo khen mèo dài đuôi thì đọc không "phê". Trong nhà mình, anh được tiếng là khờ nhất. Người khờ thì hay nói thật, mình không hay nhưng mình viết thực, đôi khi ngựa về ngược. Nếu trúng giải, anh em mình cưa đôi.
Sau khi cúp phone, vợ tôi lo lắng hỏi:
- Hai anh em ông không bàn chuyện gửi tiền về Việt Nam đấy chứ?
- Không, bàn chuyện viết bài đăng báo.
Vợ tôi tròn xoe đôi mắt bồ câu quá date kêu lên:
- Giê su ma!
Nói đoạn, nó đến gần rờ vào đầu tôi, bắt mạch xem có bị sốt hay không.
Không lẽ từng này tuổi, tôi lại không viết nổi một bài luận văn sao. Tôi quyết định viết bài dự thi, cho dù biết chắc là bị loại nhiều hơn được chọn.
***
Hai vợ chồng tôi lấy nhau được hơn 1 năm thì vượt biên, vị chi đến nay định cư ở Mỹ được 20 năm. Ngày mới sang đến trại tị nạn, hăm hở lắm với những tin đồn được đãi ngộ tại Mỹ. Tôi là phi công của Không quân, vợ tôi là phụ tá nghiệm chế ở Dược khoa, chắc Mỹ chẳng bỏ rơi mình.
Đúng, Mỹ nó chẳng bỏ rơi hai vợ chồng tôi khi đặt chân đến phần đất mới này. Nó cho vợ tôi cái nghề rửa chén, và cho tôi một cái xẻng để làm helper đi đào đất chôn ống cống. Mỹ còn ưu ái hơn, cho chúng tôi mỗi đứa một số quần áo "tốt", tha hồ lựa ở kho Salvation Army. Hai vợ chồng từ đó biết thân phận mình, vừa làm, vừa học và vừa góp tiền cắc để gửi về giúp gia đình.
Một hôm, hình như cám cảnh cái nghề mới của tôi, vợ tôi hỏi:
- Kể cho em nghe, tại sao anh lại trở thành phi công?
- Tại anh có chí tang bồng hồ thỉ, muốn làm Đường Minh hoàng đêm đêm du nguyệt điện.
Đây là lần đầu tiên nói dối vợ, không hiểu tại sao vợ tôi lại biết, nó bĩu môi đáp:
- Xạo ke!
Thú thực đời phi công của tôi bắt đầu chẳng phải vì chí tang bồng, mà nó bắt đầu bằng một sự ngẫu nhiên.
Biết khả năng mình chẳng thế nào lái nổi chiếc máy bay. Vì di truyền sao đó, có thể tại ông già bị má tôi dợt cho quay mòng mòng hoài, nên cứ ngồi lên cái gì nhúc nhích là tôi nhức đầu, kể cả ngồi võng. Tôi ở Rạch Giá, thời học trò thỉnh thoảng được về thăm quê, cứ mỗi lần xe đò chạy tới Bình Chánh là tôi bắt đầu ói mửa như con gái có bầu. Nghĩ đến Không quân, tôi cũng khoái lắm, khoái không phải vì bay bổng mà là vì khỏi lội sình. Nhưng cứ nghĩ sang Không quân mà không bay được, thế nào nó cũng đuổi về Bộ binh thì quê lắm.
Tôi gia nhập khóa 1/69 Bộ binh, đang thụ huấn tại Quang Trung thì Không quân sang tuyển người. Tôi chẳng tha thiết gì nhưng thằng Trương Phương Tuyên dụ:
- Ghi danh vào Không quân, theo xe về trung tâm y khoa khám sức khỏe, mỗi ngày mình chỉ cởi quần áo cho ông bác sĩ xem, nhảy tưng tưng mấy cái cho ổng đo, rồi vù ra phố chơi chiều về lại quân trường, đã lắm.
Tôi và nó ghi danh vào Không quân và đúng như nó nói, hai thằng nhởn nhơ một tuần lễ đi khám sức khỏe. Khám chẳng được là bao, nhưng chiều nào về ngang qua Ngả Ba Chú Ía, hai thằng cũng không quên vẫy tay chào mấy nàng Kiều cho thắm tình quân dân cá nước.
Mãn khóa Quang Trung, tôi được chuyển về Thủ Đức học tiếp để chờ ngày ra trường. Một hôm chuẩn bị ra tuyến ứng chiến, tôi được lệnh trả quân trang để về Không quân. Thằng Tuyên nói:
- Chỉ còn 6 tuần nữa ra trường, mang lon chuẩn úy, bây giờ về Không quân mang alpha dài dài.
Hai thằng bèn hạ quyết tâm ở lại.
Tôi nói với ông thượng sĩ già:
- Thượng sĩ, tôi không về Không quân đâu.
Ông trợn mắt lên nạt:
- Giỡn chơi cha non, quân đội chứ ở nhà hay sao? Bộ muốn làm gì thì làm hả? Đến 8 giờ tối mà không ký giấy trả đồ, An ninh nó ghép vô tội nội tuyến là bỏ mẹ.
Nghe nói tới An ninh là tóc tôi dựng đứng đàng sau, tôi bèn trả đồ và lấy sự vụ lệnh để về Không quân.
Tôi được xếp học khóa 69A, toàn là những tay thông minh và gốc bự, như thằng Phan Huy Bách, ba nó là Thủ tướng Phan Huy Quát, thằng Hà Thúc Việt chi chòm ông Hà Thúc Ký, Hồ văn Anh Tuấn con cháu Hồ Biểu Chánh (nó thề độc là nó không có dính dáng gì đến Hồ chí Minh). Chỉ có tôi là bần cố nông mê muội, ngay cả ông già cũng chết ngắc ngày còn nhỏ.
Ra đến Nha Trang tôi được niên trưởng chào đón và dạy dỗ rất chí tình. Khóa đàn anh, tôi gọi là niên trưởng, khóa lớn hơn tôi gọi là đại cồ, lớn nữa thì gọi là siêu đại cồ rồi dần dà lên đến thiếu úy, trung úy, đại úy sinh viên sĩ quan... Có một ông niên trưởng tự xưng là đại tá sinh viên sĩ quan siêu đại cồ niên trưởng. Hôm mới ra Nha Trang ông bắt tôi chào con đại bàng ở cổng, ông cầm khẩu carbin lên đạn lách cách tuyên bố:
- Bắn bỏ ba mươi phần trăm không cần làm báo cáo.
Tôi hoảng hồn. Té ra tôi chọn lầm binh chủng rồi, ở đây nó coi mạng sống con người rẻ như bèo.
Ông niên trưởng hay ví von thời gian đi lính của tôi ít hơn ngày ông khai bịnh lậu ở quân trường. Ông dạy tôi về tinh thần "thượng mã" của phi công, ông nói ra trận, hạ máy bay địch, nếu phi công nó nhảy dù ra thì bay ngang, lắc cánh mà chào chứ không bắn. Ông dạy về chữ "Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè". Ông nói:
- Tất cả mọi người đeo con rồng lên ngực, sống chết có nhau, là ăn cùng mâm, ngủ cùng giường.
Thằng Hà Thúc Việt cười phá lên, ông niên trưởng đến gần gằn giọng:
- Ông này cười cái gì?
- Dạ cười... ngủ chung với tiếp viên hàng không.
Ông ngạc nhiên nhìn nó, đi tới đi lui, ngẫm nghĩ, chợt ông đừng lại gằn giọng:
- Mặt ông ngu hơn thằng chăn trâu, tiếp viên nào cho ngủ chung mà mơ.
Nó dí dỏm đáp:
- Dạ tại niên trưởng nói ai đeo con rồng lên ngực thì mình được ngủ chung một giường.
Ông bực lắm, với giọng kẻ cả, ông giải thích:
- Có nhiều loại rồng, rồng Không quân là rồng khạc lửa, rồng nữ tiếp viên là rồng... lộn.
Đến lượt thằng Tuyên phì cười. Ông quát:
- Ông kia cười cái gì?
Nó bí thế đáp:
- Dạ cười con rồng.
Ông trợn mắt hỏi:
- Con rồng có gì mà cười?
Tuyên đáp bằng giọng Huế:
- Dạ, tại nó... lộn.
Cả hàng quân cười ồ lên, ông thấy mấy thằng đàn em này lếu láo quá, ông phải ra oai kẻo chúng lờn, ông nạt tiếp:
- Rồng lộn có gì mà cười?
- Dạ con rồng lộn không có gì để cười, nhưng nữ tiếp viên rồng lộn thì buồn cười.
Ông tức mình bắt hai thằng móc giò lên cửa sổ, miệng hô to một trăm lần câu: "Nữ tiếp viên rồng lộn không có gì phải cười"
Tưởng như chưa đã nư, ông đến gần một thằng thấp nhất khóa, gằn giọng hỏi:
- Tại sao ông đã xấu, mà lại còn dám lùn?
Thằng Tú ngơ ngác vài giây rồi đáp sảng:
- Dạ tại... ông già lùn!
Ông niên trưởng lại đi thêm một bài giáo khoa thư:
- Xe trước đổ thì xe sau tránh, cây đắng thì phải cố sinh trái ngọt, ông già lùn thì con phải cao, ông biết vậy mà còn ngoan cố cứ lùn. Móc giò lên đuôi bom cho tôi.
Giải quyết xong thằng Tú, ông bước sang đứa kế, ông hỏi:
- Ông tên gì?
- Khóa sinh Lê văn Nãi, khóa 69A trình diện niên trưởng.
Ông nhìn thằng Nãi đẹp trai, cố kiếm một tội để ghép. Ông chửi:
- Gái bán bar cũng biết ông thuộc khóa 69A, tôi hỏi tên, khai chi cả khóa. Ông họ Lê, biết Lê Long Đĩnh không?
- Dạ không.
- Mặt ông và mặt Lê Long Đĩnh giống nhau như đúc mà còn chối. Lê Long Đĩnh là vua dâm dật Lê Ngọa Triều, ông tổ mười đời của ông mà ông còn chối thì mai sau ông sẽ chối bỏ bạn bè. Từ nay mỗi lần trình diện, ông phải nói: Khóa sinh Lê văn Nãi, cháu đích tôn Lê Ngọa Triều, ông quên thì thác cô hồn với tôi.
Ông niên trưởng chừng như thấy quá mất thì giờ để phạt từng thằng, ông dõng dạc tuyên bố:
- Chưa có một khóa nào ngu như khóa này, mặt ông nào cũng đần đần độn độn, tôi đếm từ 1 tới 5, không muốn thấy một cái chân ông nào còn đứng trên quả địa cầu.
Ông bắt đầu đếm, hàng quân như ong vỡ tổ, mỗi đứa cố gắng kiếm một vị trí để móc cẳng mình cao hơn mặt đất, không cứ là móc lên cái gì, miễn là đôi giày bốt không còn chạm mặt đất cho ông niên trưởng hài lòng.
Tôi cắn chặt hai hàm răng, sợ bật cười sẽ bị ông ra lệnh móc cẳng lên ngọn cây dương thì khốn.
Thắm thoát một năm trôi qua, tôi được đi Mỹ để học lái máy bay.
Đây là lần thứ ba tôi được leo lên chìếc máy bay. Hai lần trước đều ngồi bệt dưới sàn chiếc C-119 thủng đít đi từ Sài Gòn ra Nha Trang và về lại, lần nào mưa cũng hắt ướt như chuột lột, lần này chiếc máy bay của hãng Braniff International không dột mà lại có ghế đàng hoàng, cô chiêu đãi viên đẹp hết cỡ, cô ta hỏi chuyện tôi nhiều, nhưng tôi không hiểu mấy. Một lần tới bữa ăn cô hỏi:
- Do you want coffee, tea or milk?
Nhìn chiếc xe cô đẩy, tôi hiểu ngay rằng cô hỏi tôi muốn ăn uống gì không.
Tôi trả lời là yes. Cô lại hỏi:
- You want some coffee?
Tôi lập lại là yes, với chữ s kéo dài thêm, ý nói muốn lắm.
Cô đưa cho tôi một ly cà phê đắng nghét. Mỉm miệng cười duyên, chắc cô đoán chuyến phi cơ này đụng toàn thứ thiệt, không cần phải hỏi thêm thằng Việt, cô đưa cho nó một ly sữa tươi. Cô hỏi hai đứa:
- Do you want some sugar?
Tôi tưởng cô hỏi muốn thêm cà phê không, nên trả lời rất lịch sự:
- No, thank you sir.
Uống xong ly cà phê đắng, tôi hỏi thằng Việt, sao mầy được uống sữa, nó trả lời cũng không hiểu tại sao. Tôi nói ở quê tao sữa bột pha ra toàn cho heo ăn, người uống đau bụng chết. Nó nói, họ đưa gì thì uống nấy chứ bộ chọn được sao? Tôi than phiền phải uống cà phê đắng, nó nói chắc Mỹ nó không uống đường, hôm nay mình sang Mỹ tập uống cà phê đắng cho quen.
Sang đến Lackland Air Force Base tôi được học Anh ngữ và mãn khóa, lúc này trình độ Anh ngữ khấm khá lắm rồi, ông thầy Anh văn dưới quê bị tôi bỏ xa. Dù sao tôi cũng phải mang ơn ông vì ông đã dạy cho tôi biết những câu vỡ lòng, như chữ "bacon" nghĩa là thịt mỡ, "hot dog" là thịt chó nóng hổi và "chase the girl" nghĩa là rượt con gái. Tôi cũng đã biết chắc chắn rằng đồng 10 xu tuy nó nhỏ hơn đồng 5 xu nhưng giá trị gấp đôi.
Cuối cùng ngày chờ đợi đã đến, đó là ngày chuyển trại để đi học lái máy bay ở Fort Wolter, Texas, tôi lo lắm, vì cái bệnh say gió của mình thế nào cũng bị rớt đài. Hôm đầu tiên ra phi đạo, thằng thầy cho tôi lên chiếc TH-55 nhỏ như cái trứng gà, lại không có cửa, nó bay lên tắp tít mây xanh nghiêng qua nghiêng lại phát khiếp, mỗi lần như vậy tôi phải uốn người vào trong cho máy bay thăng bằng trở lại, chỉ sợ mình rớt ra ngoài. Có nhiều lần tôi phải gồng tay lại nắm lấy thành ghế cho chắc. Sau gần 1 giờ biểu diễn, thằng thầy đáp xuống phi đạo, nhìn tôi cười cười, tôi ra hiệu cho nó, ý nói phải ngừng ngay tại chỗ cho tôi nhảy xuống, bằng không tôi sẽ ói thẳng vào mặt nó. Thằng thầy đứng lại cho tôi ói. Tôi ói một cách thoải mái cho dù biết rằng cú ói này sẽ chấm dứt cuộc đời bay bổng của mình.
Lạ quá, sau khi đưa máy bay vào chỗ đậu, nó khen tôi chịu đựng giỏi và tiên đoán là tôi sẽ bay được. Tôi vận dụng khả năng Anh ngữ để hỏi là tại sao ói mà bay được? Nó cười cười trả lời:
- Chẳng có thằng nào mà không ói ngày nó bay thử đầu tiên cả.
Tôi mừng lắm, thì ra tôi ói là do thằng này nó chơi, có lẽ cái sự quay mòng mòng của má tôi nó không áp phê ở xứ Mỹ này. Chắc là được Chúa Phật độ trì, sau gần 1 năm tôi thi mãn khóa và đậu. Bạn bè có đứa xì xào rằng tôi đậu vớt.
Về nước và chuyển về Không đoàn 43 Chiến thuật ở Biên Hòa. Một hôm đi hành quân ở biên giới Kampuchia, thả Biệt kích Lôi Hổ, đang mơ mộng nhìn con suối thì đạn AK nổ như bắp rang, phi cơ tôi như cục sắt rớt cái bịch xuống sườn đồi, tôi chẳng còn nhớ tí ti gì về phương pháp đáp khẩn cấp mà trường đã dạy. Nhìn ra ngoài, thấy chiếc phi cơ móp bẹp như con cóc tía, cánh quạt chém cây rừng đổ te tua và chiếc cánh quạt cũng te tua chẳng kém ngọn cây rừng. Hai chiếc Cobra của Mỹ hộ tống bắn rocket rầm rầm làm tôi hoảng quá, rút vội cái chốt gắn khẩu đại liên cùng thằng xạ thủ phóng ra rừng chạy một mạch. Chạy khoảng 200 mét, tôi hoàn hồn chút đỉnh và mệt quá, tôi chọn chiếc gò mối cao, căng chiếc càng đại liên ra, chuẩn bị một xạ trường để chiến đấu. Thằng Việt Cộng nào vô phúc nhào lên là nhất định sẽ sinh Bắc tử Nam. Tôi thấy thiếu một cái gì mà nghĩ hoài không ra, bỗng thằng xạ thủ hỏi:
- Thiếu úy, mình không có đạn à?
Lúc bấy giờ tôi mới nhớ, thì ra vác cây đại liên mà chạy, tôi quên phéng ngay thùng đạn còn nằm trên phi cơ, tôi vội tháo lấy chiếc nòng, rồi vứt cây súng M-60 vào bụi rậm và... chạy tiếp.
Tôi còn cây P-38 và 2 viên đạn, lúc này mới thấy nguy hiểm quá chừng, 2 viên đạn thì làm được trò trống gì. Ngày lãnh súng, tôi được phát 6 viên đạn, ráp đầy các lỗ của trái khế trong ổ súng, tôi thấy hơi ít, hỏi ông phi đoàn phó, ông nói:
- Pilot đi đâu cũng chỉ đeo có 1 cây súng và 2 viên đạn, mày có 6 viên còn ít ỏi gì.
Nghe nói thế sau này mỗi lần đi bay gần bãi trống tôi hay bắn bia và cuối cùng còn lại đúng 2 viên. Trên tay còn cái nòng súng M-60, tôi nghĩ, Việt Cộng đội nón cối, mình lựa thế, dếnh cho một nòng đại liên bằng sắt lên đầu, có mà trời cứu. Nghĩ thế nên tôi vững bụng đôi chút. Cũng may lần này có 2 chiếc gunship hộ tống và mấy chiếc H-34 thả Lôi Hổ ở Lào đang bay về gần, xuống bốc bọn tôi về an toàn.
Thấy 2 thằng võ trang bay vòng vòng có vẻ đỡ hơn đi thả Lôi Hổ, tôi có ý định xin về bay gunship, chưa kịp xin thì hên quá, xếp của tôi cho tăng cường vào phi đội gunship. Bay gunship thì mệt một chút nhưng không phải lơ lửng trên ngọn cây đưa bụng cho chúng bắn.
Một hôm đi hành quân ở gần Bến Thế, Bình Dương, tôi phải yểm trợ cho bộ binh hành quân. Quân bạn cho biết họ ở sát bờ nam con rạch, địch ở phía bắc. Tôi nghĩ thầm, mấy cha bộ binh hay lừa mình, thôi thì bay cách hướng nam con rạch 2 cây số, bắn về phía bắc, rồi cách con rạch 1 cây số ta vòng lại, nếu máy trục trặc thì cũng rớt lên đầu quân bạn. Tôi vào trục, nhắm mục tiêu bóp cò, rocket không nổ, tôi lượn ra mới hay mình bật lầm nút. Tôi nhào vào lại, bắn được 2 quả rocket, một quả tịt, một quả nổ ở hướng nam con rạch, thì thấy đạn phòng không bay tứ phía, phi cơ bốc cháy ở bình xăng, tôi phải cho máy bay, bay ở vị thế nghiêng, cho khối lửa dạt ra ngoài, kẻo nó tràn vô phòng lái.
Theo bài bản học khi ở trường lái, nếu máy bay cháy, việc đầu tiên là phải bấm nút release cho 2 bó rocket rớt khỏi thân tàu, kẻo nó bắt lửa nổ là bỏ mẹ cả đám. Tôi tính làm như vậy nhưng chợt nhớ lời ông già dặn hồi nhỏ: Đánh nhau, nếu bị thằng hàng xóm đấm vào mặt, không đấm lại được, thì lấy đất cày mà phang vào mái nhà nó, gặp thằng keo kiệt, tiền sửa mái nhà làm nó đau hơn bị đấm thiệt. Nên thay vì release 2 bó rocket, tôi bèn bật nút cho nó nổ "la phan". Ôi thôi 16 quả còn lại thi nhau chui khỏi giàn phóng, quả thì nổ ở hướng bắc con rạch, quả thì bay tuốt sang bên kia sông Sài Gòn nổ ở tận mật khu Bời Lời. Tôi quẹo 180 độ và cho phi cơ nhào đại xuống con rạch gần đó.
Chiếc máy bay cày tung bùn như con cá thòi lòi phóng dưới bãi sình và tôi phóng vội ra ngoài. Lụ mẹ cuộc đời, tôi bị lừa, bộ binh nó cách con rạch tới 2 cây số. Sau này hỏi lại, tôi được trả lời là nó sợ tài bắn của tôi, nếu không nói vậy lỡ tôi bắn trúng đầu nó thì sao. Mà nó hay thiệt, nếu nó ở phía nam con rạch như lời nó nói, thì quả rocket vừa rồi đã làm nó chạy té đái trong quần.
Cũng may số tôi còn lớn, thằng gunship 2 kề kịp và bốc tôi lên an toàn, bỏ lại chiếc máy bay cháy mịt mù ven bờ suối. Về đến Phú Lợi, tôi mới hoàn hồn hẳn và nhận ra phi hành đoàn thiếu một người. Tôi hỏi cơ phi là thiếu ai, nó nói thằng xạ thủ nóng quá phóng ra lúc còn ở cao độ hơn trăm bộ. Và cũng may mắn là nó rớt xuống cái hào và thằng C&C hành quân gần đó bốc lên rồi.
Hôm sau đơn vị cho biết, tôi sẽ được Anh dũng bội tinh, công bắn 16 quả rocket trúng hầm đạn Việt Cộng gây nhiều tiếng nổ phụ, tôi còn được Chiến thương bội tinh vì vết phỏng trên tay do quên mang chiếc găng tay chắn lửa Nomex, cộng thêm chiếc Phi dũng bội tinh vì tôi bay hay quá, máy bay đã cháy mà còn lết cả mấy trăm thước mới chịu rớt.
Trời phú cho tôi cái tính hay sợ chết, sau lần chết hụt này, tôi nhắm xem có loại phi vụ nào ngon hơn bay gunship hay không.
May thay, phi đoàn trưởng nói tôi có tướng "sát phi". Cả phi đoàn có không đầy 20 chiếc phi cơ bay được, tôi đã nướng hết 2, ông không muốn mất thêm nữa, nên cho tôi bay những phi vụ liên lạc, và bay VIP thật là nhàn hạ.
Một hôm nhận lệnh bay cho phủ phó tổng thống, đáp ở bãi đáp VIP Air Vietnam. Tôi tưởng là mình sẽ chở tướng Kỳ hoặc bay theo chiếc Triệu Minh Vô Kỵ của ông, tôi đáp chỗ ấn định thì chẳng thấy tướng tá nào, chỉ thấy một ông già râu tóc bạc phơ cùng hai cô bé thơm như mít tố nữ, tháp tùng bằng một anh đại úy với chiếc máy truyền tin PRC-25.
Ông đại úy hách xì xằng này ra lệnh cho tôi đi Trà Vinh. Tôi hỏi Trà Vinh là ở đâu? Ông trợn mắt nhìn tôi như nhìn một dị nhân, có lẽ ông nghĩ sao có thằng phi công ngu như vậy. Nhướng đôi lông mày, ông nói Trà Vinh nó ở Vĩnh Bình. Tôi tưởng rằng mình sẽ bay vòng vòng ở Quân khu III nên hỏi: Vĩnh Bình có gần Phước Bình không? Ông hỏi: Phước Bình nào? Tôi nói Phước Bình ở gần núi Bà Rá trên Phước Long. Ông chán đời nói: Mình đi Vùng IV. Tôi nói là không có bản đồ đi Vĩnh Bình ở Vùng IV vì tôi hành quân ở Vùng III Chiến thuật, ông nói cứ bay đi rồi ông chỉ.
Tôi bay xuống Vĩnh Bình, ông liên lạc sao đó, tỉnh trưởng ra đón vào tòa hành chánh, để lại tôi và hai em bé xinh xinh chờ ở phi trường.
Tôi hỏi:
- Hai cô đi đâu mà xuống đây?
- Dạ em đi ăn giỗ ngoại.
Bây giờ thì tôi biết là phi vụ của tôi có nhiệm vụ đưa hai cô gái về quê ăn giỗ ông ngoại.
Chiếc xe Jeep của tỉnh chạy ra chở thêm mấy người nữa, có ông già búi tó, có bà mặc bà ba. Ông đại úy lại ra lệnh cho tôi:
- Mình đi Chợ Lách.
Tôi lại hỏi:
- Chợ Lách nó ở đâu?
Ông chán nản nhìn tôi và lập lại câu cũ:
- Bay đi rồi tôi chỉ.
Ông khoác tay chỉ tôi bay về hướng Vĩnh Long, qua con sông Mỹ Thuận, rồi vòng vòng một hồi, ông chỉ một con sông, bảo tôi theo đó mà bay. Đến một con rạch nhỏ, ông dòm xuống một xóm làng và bảo tôi đáp xuống một con đê, gần đồn Nghĩa quân. Ông ra lệnh:
- Tắt máy rồi mình vào đây ăn giỗ, chiều về.
Bốn thằng phi hành đoàn tụi tôi nhìn nhau, tôi không dám để chiếc máy bay nằm đây cho Nghĩa quân coi để vào ăn giỗ, sợ vợ nó xúi hút xăng về nấu rờ sô hoặc bỏ muối vào bình xăng chút ra đề khó nổ. Tôi năn nỉ ông cho bọn tôi về Mỹ Tho hay đâu đó để kiếm cơm bình dân mà ăn. Ông nói đi đâu thì đi 4 giờ trở lại đón phái đoàn. Tôi bực mình cho phi cơ bay về Vĩnh Long đáp xuống bãi nổi ở bờ sông trước dinh tỉnh trưởng. Một anh Địa phương quân ra đuổi, nói bãi đó dành riêng cho tỉnh trưởng. Thằng cơ phi cương ẩu:
- Tỉnh trưởng lớn bằng phó tổng thống không? Phi cơ này của phủ phó tổng thống.
Anh Địa phương quân chạy vào trong, lôi ra một anh đại úy, anh này khúm núm như tôi là phó tổng thống vậy, anh hỏi tôi cần gì, tôi mượn 1 xe Jeep đi ăn cơm. Cơm xong tôi phanh ngực áo bay, tụt phẹc ma tuya tới gần háng cho mát, giăng võng nằm ngủ. Ông đại úy thỉnh thoảng ra dòm chừng, có lẽ ông thắc mắc, sao phi hành đoàn của phó tổng thống mà quá bình dân và xấu trai như vậy.
Gần 4 giờ chiều, trở lại Chợ Lách đón phái đoàn. Hôm sau kể chuyện lại cho thằng Tuất nghe, nó trợn mắt:
- Mày điếc không sợ súng, vùng đó tụi tao ít thằng nào dám la cà vào, bay thấp thì AK nó bắn, bay cao thì SA-7 nó chào.
Tôi ngẫm nghĩ, phi vụ nào cũng nguy hiểm cả, như thế làm sao sống nổi cho đến ngày biết yêu. Tôi hỏi ông phi đoàn trưởng có phi vụ nào đỡ nguy hiểm hơn không, ông nói:
- Có, ở ngoài Phù Cát bay đỡ nguy hiểm hơn, vì toàn là cát và nước biển, có rớt cũng rớt êm êm.
Thực ra ông chỉ nói chơi thôi, vì tôi là thằng cuối cùng luân phiên thuyên chuyển sau 4 năm ở phi đoàn. Tôi ra Phù Cát, an toàn thật, vì thời điểm này Mỹ cắt viện trợ, một tháng chỉ bay vài phi vụ, còn lại là chuyên học nhảy đầm và luyện Tae kwon do.
Đến hôm di tản chiến thuật về Nha Trang, tôi đang uống cà phê ở câu lạc bộ thì nghe súng nổ tứ tung, chạy ra ngoài thấy lính Không quân chạy đầy phi đạo, tôi vội chạy ra chiếc phi cơ của mình, còn cách khoảng 20 mét thì thấy nó tự động vọt lên trời, bên trong đen ngòm là người. Quính quá, tôi vòng ngược trở lại, thấy một chiếc phi cơ cũng đầy lính là lính, trên ghế lái có một anh mặc đồ bay ngồi đó, chiếc ghế trưởng phi cơ còn trống, tôi phóng lên ngồi, cả phi cơ đều nhìn tôi. Tôi hỏi ông phi công:
- Dọt đi chứ cha, nó tràn ngập bây giờ.
Anh phi công nói:
- Em bay không được.
Tôi vội chụp cần lái, mở máy, cho phi cơ vội vọt lên trời và theo đoàn phi cơ hướng về nam, đáp xuống Tân Sơn Nhất. Tôi hỏi ông phi công ngồi bên trái:
- Ông là phi công gì mà không biết bay?
- Dạ em chưa ra trường, với lại hôm nay máy bay nhiều quá, mà em thì không có check list để mở máy.
Đó là phi vụ cuối cùng của tôi, nó chấm dứt cuộc đời bay một cách vô duyên, có lẽ cũng giống như nó đã bắt đầu cuộc đời bay bổng vô lý của tôi. Nó không bắt đầu bằng mộng mây trời và cũng không kết thúc bằng những chiến công oanh liệt.
Phi công của Không quân toàn là những anh hùng, những người hào hoa và bay bướm, không hiểu tại sao lại đọa ra một thằng như tôi, vừa cù lần vừa dấm dớ. Hơn 5 năm khoác chiếc áo bay, tôi chẳng làm được cái gì nên tích sự, ngoại trừ lừa được một người con gái khờ, đó là má bầy trẻ của tôi bây giờ. Cho tới nay bà vẫn tin là tôi ngon lắm, hơn hẳn những thằng phi công khác, cho dù cứ mỗi lần tôi gáy, thì theo thói quen, bà vẫn đồng ý bằng câu trả lời cũ: "Xạo ke!"
Hiện nay đã "an cư lạc nghiệp" tại Mỹ, tuy cũng rất cùi đày chẳng kém ai, nhưng vào cuối tuần, tôi cũng hay la cà ở quán cà phê nghe anh em bàn chuyện thế sự.
Quán cà phê chỗ tôi ở, có đủ mọi chuyện dài "nhân dân tự vệ", từ những ông đội đá vá trời một thuở, bây giờ làm Lã Vọng ở nhà ăn trợ cấp, đến những người biết quá nhiều nghề, chẳng nơi nào xứng đáng cho ông làm, bèn đi thụt bi da chờ thời. Tôi biết mình từng là pilot xạo ke thủa nọ, không dám gáy nồ trước đám đông, chỉ ngồi nghe kể chuyện thế thái nhân tình.
Hôm qua, có một ông sau khi kể thành tích long trời lở đất, thấy tôi ngồi im như bụt, ông hỏi:
- Thế chú ngày xưa làm gì?
Bản tính bần cố nông của tôi tự nhiên vùng lên, không tự chế được mình, tôi gáy:
- Bay cho phủ phó tổng thống.
Cả quán bi da quay lại nhìn tôi, có nhiều câu bàn tán nhưng một câu tôi thấy thấm thía nhất do một anh thanh niên nói: "Xạo ke!"
Chuyện đóng góp vào cuộc chiến của tôi không có gì đáng ghi vào công trận, mà toàn là những chuyện làm mất mặt pilot và binh chủng. Tôi chỉ mong các phi công của Không lực thứ lỗi cho vì tôi bắt đầu nhận ra chân lý: "Nhận cái dở mình có, tốt hơn đánh bóng cái hay mình không có"
Tuần rồi dự lễ ra trường của đứa con gái, nhìn lên câu khẩu hiệu mà lớp 2001 dùng làm kim chỉ nam cho cuộc đời tương lai của chúng, tôi suy nghĩ mãi. Câu nói rất giản dị của Tony Arata: "I will do my dreaming with my eyes wide open and I will do my looking back with my eyes closed"
Tuy phải lưu vong ở quê người, ngày ngày đóng vai thằng phu ống nước, kiếm đồng bạc nuôi con ăn học, khó có hi vọng trở về quê cũ cầm lại cần lái chiếc trực thăng, tôi vẫn cầu mong sao, kiếp sau nếu có làm người, tôi sẽ cố gắng trở thành một phi công đàng hoàng hơn để xứng đáng với lời hát "Phi công ra đi lướt trên ngàn mây gió"
Tôi cũng mong sao tập thể phi công không buồn lòng khi có một thằng "pilot ke" dám kể chuyện "xạo ke" mà tỏ ra chẳng "ke" gì về dĩ vãng, ở cái mảnh đất tạm dung này. Thật là đa tạ, đa tạ.
Kinh bỏ mẹ
Phương Toàn
Ta vốn dĩ là con chiên không ngoan đạo
Nếu lỡ lên thiên đàng cũng chỉ vì em
Tôi đi đạo theo cái kiểu đó, nhưng khi bị vào hộp sau 30-4 vẫn bị kể là một thằng "4 có" của trại cải tạo. Đó là: có du học; có phi pháo; có Công giáo; có Bắc kỳ di cư.
Ba có đầu thì tôi không phàn nàn, nhưng ghép tôi vào tội Bắc kỳ di cư thì quả là oan ơi ông địa.
Vốn sanh đẻ ở Bình Dương, nhưng ngụ cư ở Cái Sắn với những người di cư năm 54, nên mấy đứa cùng lớp kêu anh em tôi là "thằng Nam". Nhờ gần mực thì đen, gần đèn thì tối, nên mấy năm sau tôi chửi thề và nói tục bằng tiếng Bắc còn ngon hơn tụi nó nhiều.
Ngày thi tiểu học, cần có khai sinh để nộp đơn, má tôi dụ khị được hai ông trùm khờ của xứ đạo đi xuống tòa hòa giải rộng quyền của tỉnh Kiên Giang mà thề rằng tôi đẻ ở tỉnh Bùi Chu ngoài Bắc.
Thế là tôi nghiễm nhiên trở thành thằng Bắc kỳ di cư với tờ thế vì khai sanh ghi sinh quán là làng Địch Giáo, huyện Giao Thủy, tỉnh Bùi Chu.
Khi lên học trên Sài Gòn, mấy thằng Nam kỳ quốc muốn chọc quê tôi, cứ chờ khi có mặt mấy đứa con gái, giả làm một ông già hút thuốc lào rồi nói:
- Thuốc lào Cái Sắn! Say!
Đó là câu quảng cáo mà ta hay thấy ở chợ Ông Tạ hay đầu ngõ vào xứ Bùi Phát đường Trương Minh Giảng.
Có khi tụi nó còn hợp ca:
Ai bảo di cư là khổ, di cư sướng lắm chứ
Ngồi tàu bay ta vào miền Nam
Lòng ta sướng nao nao
Rau muống trong Nam lại nhiều, mà người Nam không biết
Ước mong sao, rau muống lên cao, tăng sức mạnh cần lao...
Những lúc đó tôi cầu trời khấn phật cho mấy thằng giá sống kia thi rớt để vô Quang Trung cho đáng đời.
Sau bao nhiêu năm quân ngũ với bao lần sưu tra lý lịch, tôi vẫn yên trí rằng mình sinh ở tỉnh Bùi Chu. Mãi cho đến ngày sập tiệm, có một anh Bắc kỳ chính hiệu bà lang Trọc cho tôi biết là ở ngoài Bắc làm gì có tỉnh Bùi Chu, giáo phận Bùi Chu thì có.
Tôi thắc mắc: Bùi Chu là giáo phận hay họ đạo nhỏ bé là thế mà sao đi đâu cũng thấy địa danh dính dáng tới nó? Tôi ở xứ Tân Chu, bên kia sông là Tân Bùi, bác tôi ở trên Bùi Phát Sài Gòn, ở gần Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa còn có Bùi Thái nữa.
Người Bắc Bùi Chu đặt tên ngộ lắm: Ông Bứa có thằng em là ông Bỉnh, hai thằng con ông là thằng Vênh, thằng Váo. Kêu tên cả gia đình ông ra thì dân anh chị nghe cũng phải phát rét.
Ông anh rể tôi tên là Yêm, anh ông tên là Uông, bố tên Am, tên cả nhà: Am Uông Yêm nghe cứ như bản nhạc ếch nhái kêu ngày mưa đầu mùa dưới ruộng vậy.
Ngôn ngữ người di cư hồi đó cũng khó hiểu: Cái thước thăng bằng của thợ nề họ kêu là cái li vô (level), cái gà mên ăn cơm của lính họ gọi là cái lập là (plate). Tôi vào khóa 69A Hoa tiêu thì họ gọi là... lái phi công!!!
Gần nhà tôi có ông hàng xóm tốt bụng nhưng coi bộ ông ganh với má tôi lắm, chỉ vì bà là đàn bà góa mà dám có đứa con "bay được lên giời". Thỉnh thoảng để tự an ủi hay để an phận, ông thở dài nói:
- Bay lên giời! Kinh bỏ mẹ!
Nếu có ai hỏi tôi bay bổng ra sao, tôi thường cười rồi lập lại câu nói ngày xưa của ông:
- Kinh bỏ mẹ!
Thực ra đời bay bổng, kể cả đi bay lẫn đi máy bay có những cái vui, nhưng cũng có những nỗi lo sợ ít ai chối cãi được.
Tính tôi nhát cáy, mà sao ông trời cứ cho tôi gặp những sự bủn rủn tay chân. Hôm chở ông tư lịnh sư đoàn từ Tân Uyên sang Lai Khê họp, mới qua khoảng Bố Lá thì trần mây thấp quá nên phi cơ chỉ bay cao khoảng 1,000 ft, đạn Việt Cộng nổ như bắp rang dọc theo một tuyến thật dài cả cây số. Ngài tư lịnh hoảng quá vội lấy tấm bản đồ hành quân che lên mặt để... tránh đạn!
Thử hỏi gặp cảnh như thế bố thằng nào lại không sợ. Nhất là khi đáp xuống Lai Khê kiểm lại: thân tàu lãnh hơn 10 lỗ đạn.
Đi hành quân Kampuchia, gồm 1 C&C, 2 gunships và 4 slicks khởi hành từ Biên Hòa trực chỉ Tây Ninh. Ông C&C muốn dẫn bầy rồng rồng đi le gái nên dõng dạc ra lệnh:
- Bay theo quốc lộ cho an toàn.
Một hợp đoàn gồm 7 chiếc bay rà rà sát mặt đường, thỉnh thoảng lơ xe đò nhìn lên có vẻ ngưỡng mộ lắm.
Ngang Trảng Bàng, chiếc lead la lên:
- Sương mù nhiều quá. Ê! C&C làm sao bây giờ?
- Lead cứ bay tới; thằng 1 quẹo trái; thằng 2 quẹo phải; trail bốc lên cao.
Gunship bay sau la hoảng:
- Tụi tao kè hai bên, thằng nào quẹo, tao húc!
Tôi bay trail (chiếc cuối cùng) nghe thế hồn phi phách tán, bèn bốc tít lên tận trời xanh, mặc cho sương mù dầy đặc...
Khoảng 2 phút sau, văng ra được một lỗ mây, to hơn cái dạng háng của thím Tư Nãi, mừng thầm. Bỗng thấy một chiếc UH từ cụm mây bên kia bay cái vèo bên hông và lủi tuốt vào vùng mây khói âm u.
Trong cảnh này có ai dám nói là mình không sợ? Chàng xạ thủ ngồi đằng sau, đái ra chiếc "phi bào" sau khi kêu lên được một câu: "Chúa ơi!"
Nhờ vận số hên (hồi đó tôi cứ tưởng là do tài bay bổng của mình) 4 Tề Thiên tụi tôi cũng đằng vân lên được bên trên mây, có điều không thằng nào đoán nổi là núi Bà Đen nó nằm ở chỗ nào phía dưới.
Sợ cảnh "đi không ai tìm xác rơi" nên chiếc UH cứ bay vòng vòng trên mây hoài. Khốn nỗi là xăng có hạn, làm sao bây giờ? Chúa ơi! Nếu có thiêng thì cho người đi kiếm xác bọn con, trước sau gì con cũng phải đục mây chui xuống. Tôi chuẩn bị làm một kỳ công tối kỵ của ngành phi hành: chui mây.
Có lẽ lời cầu được Chúa thông cảm vì:
Dù sao thì chúa cũng
Một thời làm trai tơ
Dù sao thì chúa cũng
Là đàn ông dại khờ
(Thơ trích)
Sau một hồi vật lộn với mây, bọn tôi cũng xuống được đất an toàn.
Anh chàng xạ thủ nói:
- Vợ em nó bảo giời vật em cũng không chết. Thiêng thật!
Những chuyện như thế, không gọi là sợ thì gọi là gì?
***
Sang Mỹ, mỗi lần có dịp đi máy bay, tôi hay lén nhìn ra phi đạo xem chiếc phi cơ chở mình có mở nắp ca bô lên không, vì theo kinh nghiệm ngoài xa lộ, cứ chiếc nào có cái hood mở lên là y như rằng chết máy.
Đúng ra mấy hãng máy bay Mỹ, nếu thấy phi cơ không đủ tiêu chuẩn cất cánh thì cũng nên lôi vào chỗ kín kín mà sửa, đừng để cho khách thấy, nếu sợ tốn thì giờ thì cứ bay đại đi rồi tính sau.
Chuyện bay đại ở Việt Nam thì Kỹ thuật Không quân làm là thường.
Tôi nhớ có lần hành quân ở Chơn Thành, cái đèn Chip Detector báo đỏ, phải gọi Kỹ thuật Biên Hòa lên sửa, ông thượng sĩ già ung dung trèo lên phòng lái, nhẹ nhàng rút chiếc cầu chì ra cho đèn tắt rồi bảo:
- Trung úy cứ bay về đi.
Tôi cự lại, thì ông nói máy bay này chỉ bị mát chứ không có hư, và để bảo đảm lời nói của mình, ông sẽ leo lên bay về chung với tôi. Ông ta còn giải thích:
- Điện có mát thì chỉ cháy thôi, chứ không nổ trên trời như khi có mạt sắt trong máy.
Về Việt Nam năm nào, nhớ lại nghề bay bổng nên cứ mỗi lần nhìn thấy phi cơ trên trời là lòng tôi lại thấy nao nao. Tôi hỏi thằng em ruột:
- Rạch Giá đi Sài Gòn, thuê xe hơn hay mua vé máy bay hơn?
- Máy bay hết 45 phút, xe chạy hết 4 tiếng, tiền thuê xe bằng tiền mua vé máy bay.
Tôi quyết định đi máy bay của Nga cho biết với người ta.
Sáng thứ tư tôi chuẩn bị cho thằng em đưa ra phi trường Rạch Sỏi để đi Sài Gòn, nó nói:
- Không biết hôm nay có máy bay không.
- Sao mày nói nó bay mỗi thứ tư và thứ bảy?
- Ừ, đó là chương trình, còn nó bay hay không thì chưa biết.
Chờ ở phi trường chừng nửa tiếng thì chiếc phi cơ khá lớn đáp xuống phi đạo. Tôi làm thủ tục lên tàu, vé mang số 5 ở tuốt hàng đầu, thiên hạ chen nhau lên trước nên khi tôi lên đến nơi thì không còn chỗ. Cô tiếp viên nói gia đình họ đi có đoàn, tôi đành nhường chỗ và theo cô xuống phía dưới.
Cô khá xinh, chỉ cho tôi vịn vào chiếc cột nhôm gần đuôi chiếc máy bay để cô xếp chỗ.
Một lúc sau viên phi công hầm hầm đi xuống từ phòng lái, cự nự:
- Các cô làm ăn thế này thì chết cả lũ.
Một cô mặc áo màu xanh, nhân viên phòng vé dưới đất (hồi xưa tiếp viên hàng không đi bay thì mặc áo màu xanh, còn bây giờ họ lại đổi màu hồng) năn nỉ:
- Anh Ba thông cảm cho em chuyến này, chuyến sau em làm tốt hơn.
- Chuyến sau! Chuyến sau! Quá tải có ngày chết cả lũ.
Viên phi công hậm hực trở lên phòng lái, chiếc phi cơ gầm lên lao nhanh trên phi đạo rồi rời khỏi mặt đất.
Tôi nhìn qua cửa máy bay, sống lại cảm giác hồi mình còn ở trong Không quân, bay liên lạc đáp xuống phi trường Rạch Sỏi này. Có khác chăng là ngày xưa thì ngồi, còn bây giờ thì đứng ôm chiếc cột trong thân tàu.
Chuyện phi cơ quá tải ở Việt Nam là thường, tôi đã từng chở 18 người từ An Lộc về Lai Khê trong khi UH chỉ có 9 chỗ ngồi mà có sao đâu.
Phi cơ không về Sài Gòn ngay mà lại ra Phú Quốc. Lỗi này là tại tôi không đọc kỹ vé. Hàng Không Dân Dụng có ghi rõ tuyến đường là: Sài Gòn - Phú Quốc - Rạch Giá - Phú Quốc - Sài Gòn. Có nghĩa là máy bay từ Sài Gòn ra tới Phú Quốc đổ khách, bốc khách về Rạch Giá, đưa khách từ Rạch Giá ra Phú Quốc rồi mới vòng về Sài Gòn.
Không đọc kỹ vé thì không kêu ca vào đâu được. Có điều bay từ Rạch Giá ra Phú Quốc thì được free, cho dù là đứng hay ngồi.
Tôi cũng chẳng phàn nàn gì về cái ghế trên phi cơ, vì cô tiếp viên cũng ôm chặt cái cột khi máy bay cất cánh như tôi. Tôi hỏi:
- Cô bay tuyến này khá không?
- Chả có gì đâu anh ạ, bay tuyến quốc ngoại mới ăn, nhưng đỡ hơn bay tuyến ngoài Bắc.
- Sao thế?
- Tuyến ngoài Bắc khách cứng đầu lắm, nói thế nào cũng chẳng chịu nghe.
Cô ta làm tôi nhớ tới một ông "Bắc kỳ di cư", y hệt tôi đi trên chuyến Hồng Kông - Sài gòn trước đây một tuần. Trời Sài Gòn tháng 7 nóng như đổ lửa mà ông mặc bộ com lê đầy đủ. Khi chuyển máy bay ở Hồng Kông, ông ngồi lộn ghế, tiếp viên năn nỉ thế nào cũng không chịu đứng lên, cuối cùng cô tiếp viên đành chào thua để ông ngồi lì ở đó. Lát sau ông quay qua phía tôi phân bua:
- Cứ tưởng ông như nhà quê mà bắt nạt. Mẹ, ông mua vé thì ông muốn ngồi đâu ông ngồi chứ!
Tôi hi vọng ra đến Phú Quốc sẽ có chỗ ngồi, tôi lại lầm vì có lẽ Việt Nam đang trên đà đổi mới nên làm ăn khấm khá, tuyến nào cũng đầy khách.
Tôi lại đành làm anh hùng đứng ôm cột với cô tiếp viên như khi còn nhỏ chơi thả đỉa ba ba vậy.
Khi phi cơ trở ra cuối phi đạo để cất cánh, tôi dòm ra thấy có hai viên công an chạy hai chiếc Honda kề bên hông nên hỏi:
- Họ làm gì vậy?
Cô giải thích:
- Họ chạy theo để chặn bò. Đôi khi phi cơ cất cánh, mà bò chạy ra trên phi đạo thì cũng có... vấn đề đấy.
Tôi hỏi bò của ai mà vào được cả trong phi trường, cô trả lời không biết, chắc là của công an.
Khi đáp xuống Tân Sơn Nhứt tôi mới khám phá ra một sự lạ nữa, là không phải chỉ có tôi và cô tiếp viên không có ghế, mà ở tuốt trên hàng ghế đầu, đặt nằm dưới sàn có một cái băng ca, trên đó nằm đưỡn đừ một bệnh nhân đang thiêm thiếp. Có lẽ ông này được khiêng lên ở Phú Quốc lúc tôi ngồi trong phòng đợi.
Người ta khiêng ông xuống và chiếc băng ca được đặt nằm trên mặt đất ngoài phi đạo thi gan cùng nắng gió và bụi, hình như chờ xe thuê bao đến chở đi nhà thương.
Vị chi chuyến này có 3 người ngồi ghế xúp, y hệt lơ xe đò ngày xưa ráng nhét hành khách vào giữa hai hàng ghế!
Tôi rời nhà lúc 7 giờ sáng, phi cơ đáp Tân Sơn Nhứt khoảng 12 giờ trưa, vậy là khoảng 5 tiếng đồng hồ. Lâu hơn đi xe, có điều là được đi một đoạn miễn phí và học hỏi được đôi điều thú vị.
Mấy hôm sau, gặp lại thằng em ở Sài Gòn, nó hỏi:
- Anh đi máy bay Nga có sướng không?
Tôi cười như mếu:
- Kinh bỏ mẹ!!!
Post a Comment