Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương
Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương
Tư Lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật
Kiêm Chỉ Huy Trưởng Yếu Khu và Khu Vực Quân Sự Tân Sơn Nhất
1933-1968
SQ/53/600149
1952: 1 tháng 3, nhập ngủ Không Quân Tốt nghiệp Hoa Tiêu Trường Võ Bị Không Quân Pháp và Algerie
1960: Thiếu Úy Sĩ Quan Huấn Luyện thuộc Liên Phi Đoàn 1 Vận Tải.
1964: Thiếu Tá Trưởng Phòng Hành Quân Biệt Đoàn 83 Thần Phong
Tháng 4, Tư Lệnh Không Đoàn 74 tân lập tại Cần Thơ
1965: Chỉ Huy Trưởng Liên Phi Đoàn 1 Vận Tải
1-11, thăng Thiếu Tá thực thụ
1966: Trung Tá Tư Lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật
1967: Tháng 6, thăng Trung Tá thực thụ
1968: Rạng sang ngày 31-1 bị thương ở chân do trúng đạn trong cuộc Tổng tấn công đợt 1 của Cộng quân vào Thủ Đô Sài Gòn nhân dịp Tết Mậu Thân 1968
Tháng 2 , Vinh thăng Đại Tá
Ngày 6 tháng 5 tử trận lúc 9:30 phút sang do trúng phải một quả đạn B40 của toán Đặc Công Việt Cộng khi đang trực tiếp chỉ huy đơn vị phòng thủ yếu khu Tân Sơn Nhất phản công lại cuộc đột nhập vào Phi Trường Tân Sơn Nhất tại Ngả tư Bảy Hiền trong đợt 2 Mậu Thân. Hưởng dương 35 tuổi.
Được truy thăng Chuẩn Tướng và truy tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
Chú thích Viết khoảng giữa/cuối 1968, nhân cái chết của Cố Chuẩn Tướng Không Quân Lưu Kim Cương, một người bạn hào hoa và hào hiệp: "Câu lạc bộ này (Bốn phương trời) nằm trong khuôn viên của Không Đoàn 33, do Lưu Kim Cương làm tư lệnh trước đây đến khi tử trận qua chiến dịch Mậu Thân đợt hai vào giữa năm 1968 (...). Lúc tử trận Lưu Kim Cương mang cấp bậc đại tá, khi chôn ở Mạc Đĩnh Chi vinh thăng Chuẩn tướng (...). Buổi đưa tiển đến nơi an nghỉ cuối cùng, rất đông nghệ sĩ từng giao du yêu mến chàng. Bài nhạc Hát Cho Một Người Vừa Nằm Xuống (sic) của Trịnh Công Sơn là một ví dụ. Nhưng bữa nay không thấy mặt Sơn, buổi sinh thời Sơn giao du với Cương, được Cương yêu mến, nên Cương đề nghị với Tướng Tư Lệnh đưa Sơn vào lính không quân để cho qua cơn binh đao nội chiến. Tư lệnh trả lời Cương, hình như điệu nhạc phản chiến của Sơn không hợp với binh chủng này, nếu nhận làm nhạc công như nhiều nhạc sĩ khác như Duy Quang, Nguyễn Trung Cang, Trí khùng... chưa chắc Sơn đã làm công việc này hoàn hảo, nên tướng chối từ."
(Thế Phong, 1966: Hồi ký ngoài văn chương, nxb Đồng Văn, Văn Nghệ phát hành, Wesmington, tr. 112-113).
Đằng sau một bài hát
Vào truyện
Một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas:
– “Trước 1975 ở Việt Nam anh làm gì?”
– “Tôi trong Không quân…”
– “Chắc anh cùng lứa với ông Nguyễn Cao Kỳ?”
– “Không! ông Kỳ là cấp chỉ huy của tôi, ở Sài Gòn; Tôi đóng ở Pleiku. Tôi ngang cỡ với Lưu Kim Cương, một đàn em thân cận của ông Kỳ.”
– “A, anh biết ông Lưu Kim Cương hả? Anh có biết ông ấy chết như thế nào không?”
– “Nghe nói rất thương tâm; Trúng đạn bắn xe tăng, phổi lòi ra ngoài!”
…
* * *
Rất nhiều người đã nghe bài hát “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” từ sau biến cố Tết Mậu Thân, năm 1968, nhưng chắc ít ai biết rõ những tình tiết đưa đến sự ra đời của nhạc phẩm này, để đến cả 40 năm sau vẫn còn có người muốn tìm hiểu.
Bài hát có lời như sau:
“Anh nằm xuống, sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi
Anh nằm xuống, cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không
Bạn bè còn đó, anh biết không anh?
Người tình còn đó anh nhớ không anh?
Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên
Khi bóng anh như cánh chim, chìm xuống
Vùng trời nào đó, anh đã bay qua?
Chỉ còn lại đây những sáng bao la
Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa
Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ
Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò
Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
Những sớm mai, lửa đạn
Những máu xương chập chùng
Xin cho một người vừa nằm xuống
Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”
Với những ai không quen biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) – là tác giả bản nhạc – dù có nghe, hay đọc kỹ lời ca cũng khó có thể biết nhân vật được nói đến là ai; Chỉ biết người ấy mới qua đời, và lúc còn sống đã có dịp bay cao trên trời.
Để hiểu rõ câu chuyện, có lẽ phải nhìn lại từ năm 1962. Đó là năm nữ ca sĩ Khánh Ly (KL) thật sự bước vào cuộc đời ca hát của mình, trình diễn ở phòng trà Anh Vũ, một trong vài phòng trà ca nhạc (sống) lúc nào cũng chật ních giới thưởng ngoạn, trên đường Bùi Viện ở Sài Gòn.
Ca sĩ KL ghi lại trong “Chuyện kể sau 40 năm” – chú thích trong ngoặc đơn là của Nguyên Giao: “… Tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ, và chính ở đó, tôi gặp Trung úy Không quân Lưu Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn (người anh ruột của KL – không phải là TCS) và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn… hát tiếp những bài tôi vừa hát; Đặc biệt là bài ‘Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa’ … Anh bảo … Mai (tên thật của KL) chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa … Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vì anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này … ”
Nhưng cuối năm 1962, KL lại rời Sài Gòn lên hát cho một phòng trà khác ở Đà Lạt, và lưu lại đó 5 năm. Năm 1964, tại Đà Lạt, KL gặp một người nhạc sĩ nghèo. Anh đến với cô bình thản như cơn mưa dầm của Đà Lạt vào đêm hôm đó. Qua vài câu chuyện, cô và nhạc sĩ trở thành hai người bạn. Người bạn ấy không ai khác, đó là nhạc sĩ TCS. Rất nhiều lần TCS đề nghị KL về Sài Gòn đi hát với ông nhưng cô đều từ chối bởi cô yêu Đà Lạt, sự yên tĩnh thanh bình của Đà Lạt đã quyến luyến bước chân cô, không như Sài Gòn vốn đông người và luôn nhộn nhịp.
Đến năm 1967, ca sĩ KL tình cờ gặp lại nhạc sĩ TCS giữa giòng người đi lại trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn, vào một buổi chiều êm ả. Từ một đêm mưa của Đà Lạt đến một buổi chiều trên đường phố Sài Gòn, tất cả đã bắt đầu như đưa đẩy định mệnh.
Vài hôm sau, trên nền gạch đổ nát bãi đất rộng sau trường đại học Văn Khoa Sài Gòn, một quán lá sơ sài được dựng lên với cái tên là Quán Văn. Tại đây, giọng hát khàn đục, và lôi cuốn của KL đã làm ngẩn ngơ, bàng hoàng & ngất ngây cả một thế hệ với những bản tình ca, và Ca Khúc Da Vàng mới lạ của TCS.
Hãy nghe bà Đặng Tuyết Mai – trước là phu nhân của Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ (NCK) lúc giữ chức Thủ tướng VNCH - mô tả liên hệ giữa Lưu Kim Cương (LCK) và Trịnh Công Sơn (TCS) trong một cuộc phỏng vấn năm 2009 ở Hoa Kỳ:
“ … Anh LKC và chị rất là say mê nhạc của anh TCS và con người của anh TCS nữa. Chị hay nấu nướng. Trong Câu lạc bộ Không quân, anh LKC có một câu lạc bộ nhỏ là Mây Bốn Phương, luôn luôn kéo anh TCS vào đó. Chị đem đồ nhậu đến. Anh TCS làm được bài nhạc mới là hát, và hay tả cho nghe. Chị hay đến câu lạc bộ Mây Bốn Phương để nghe anh TCS đàn hát những bài hát mới. Giao tình của anh TCS với anh LKC rất mật thiết. Cũng lạ, một người rất là nhà binh, to lớn, cường tráng. Còn anh TCS rất là mỏng manh, ốm yếu. Nhưng hai người gần nhau vô cùng trong tình nghệ sĩ. Anh LKC có rất nhiều nghệ sĩ tính, hát rất hay. Thành ra, họ rất thân mến với nhau. Hàng tuần, họ gặp nhau hai, ba lần … “
Từ năm 1967, NCK giữ chức Phó Tổng thống VNCH, có Trung tá LKC trong số những sĩ quan thân tín Không quân chung quanh.
Đúng mùng một Tết Mậu Thân (31 tháng Giêng năm 1968), một cánh quân Việt Cộng tấn công căn cứ Không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Có mặt tại căn cứ, LKC đã “không quân đánh bộ” thành công chỉ huy dẹp tan quân địch hôm 23 tháng Hai, và được vinh thăng Đại tá.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1 Tết Mậu Thân, tới trung tuần tháng 4, 1968 Việt Cộng lại mở cuộc tổng công kích đợt 2. Nhật báo Chính Luận ở Sài Gòn trong số ra ngày mùng 7, tháng 5, năm 1968 đăng tin: “Sáng ngày mùng 2 tháng 5 vào hồi 10 giờ, Ðại tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Ðoàn 33 đã bị tử thương trong lúc ông đương đích thân chỉ huy một đơn vị bảo vệ vòng đai phi trường để đẩy lui một cánh quân Việt Cộng tại khu nghĩa trang Pháp gần ngã tư Bảy Hiền. Ông đã bị một tên Việt Cộng thủ súng B40 (phóng lựu đạn, để bắn xe tăng) vẫn còn sống, bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên.
Ðại tá Lưu Kim Cương năm nay 34 tuổi có 2 con. Ông là người rất vui tính, có nhiều máu văn nghệ, chiếm được nhiều cảm tình trong giới quân đội cũng như báo chí. Tưởng cũng nên ghi nhận đây là lần đầu tiên một sĩ quan mang cấp Tá của quân đội ta nói chung và của Không quân VN nói riêng đã hy sinh trong lúc trực chiến với địch.”
Nhà báo/Nhà văn Văn Quang có ghi lại: “Một buổi chiều năm Mậu Thân 1968, ngồi ở nhà hàng Pagode tôi gặp Khánh Ly và Ngọc Anh đi cùng Trịnh Công Sơn. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Ăn ở một quán bụi xong đã đến giờ giới nghiêm – thời gian đó Sài Gòn giới nghiêm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. Khánh Ly nhờ tôi đưa Trịnh Công Sơn về … Đêm đó là đêm đầu tiên tôi đưa Trịnh Công Sơn về building Cao Thắng. Ở cái building đó chỉ có một phòng gắn máy lạnh, là của một thương gia bán huy chương ở ngay chợ Bến Thành thuê làm phòng riêng, cho tôi ở chung nhưng không lấy tiền. Sơn mang đến cây đàn guitar, ở lại phòng tôi vài ngày, tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày. Nhưng chính ở đó anh sáng tác hoặc hoàn tất bản ‘Tình Xa’. Tôi có cái máy ghi âm hiệu Akai, trong khi tôi đi làm, Sơn vẫn thường dùng để nghe lại bản nhạc mình đang hoàn thành. Rồi chợt một hôm nghe tin Lưu Kim Cương chết ở phi trường Tân Sơn Nhất, Khánh Ly lên phòng tôi, cô ngồi lặng, Sơn chỉ nhìn và cũng lặng yên. Ít ngày sau, bài ‘Cho Một Người Vừa Nằm Xuống’ ra đời … “
LKC chỉ là một trong nhiều chiến sĩ đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam. Người ta ước tính đã có khoảng 3 triệu quân & dân hai miền chết vì cuộc chiến đó. Trong số này, đã có rất nhiều chiến sĩ trong các binh chủng khác như Thủy quân Lục chiến, Biệt kích Dù, Biệt động quân, v.v. của VNCH đã chết trận. Khác với hai sĩ quan cấp Tá Không quân Phạm Phú Quốc, và Lưu Kim Cương, hầu hết những hy sinh anh hùng khác – kể cả trong binh chủng Không quân – đã không được người ngoài thân nhân, hay bạn thân biết đến, vì mấy ai được/có nhạc sĩ sáng tác, ghi lại (bằng bài hát), và được cho phổ biến (trên truyền thông), để người ngoài – không phải là thân nhân – biết đến?
Mặt khác, so với các chiến sĩ đã nằm xuống, trường hợp các Tù Cải Tạo trong các nhà tù của Việt Cộng lại càng phải được ghi nhận cho đúng. Đừng quên ngay sau năm 1975, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, và viên chức VNCH đã bị tù đày, hành hạ, có người cả 20 năm. Bao nhiêu gia đình đã tan tác? Một số tù nhân đã chết trong tù vì bệnh hoạn, hay kiệt sức. Những chịu đựng, và hy sinh của những người tù lay lứt sống còn hình như đã không được ghi nhận tương xứng so với những bạn đồng ngũ nổi danh đã nằm xuống.
Hơn 35 năm sau biến cố 1975, một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas, tình cờ tôi đã được trao đổi vài ba câu chuyện với một cựu sĩ quan Không quân cùng lứa với cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương. Có khác chăng chỉ là người còn sống đã trải qua 13 năm tù cải tạo, và chỉ muốn quên đi quãng đời thanh xuân mà ông coi là đã bị phí phạm.
Còn bao nhiêu cựu tù chưa có dịp giải tỏa chuyện đời của họ? Cũng đều là vì nước, giữa đột ngột chết trận, và sống còn với thể xác suy yếu & tâm thần gẫy đổ sau nhiều năm bị kẻ thù đầy đoạ & hạ nhục, thử hỏi: Ai trần ai hơn ai? Và như vậy, sao đã vinh danh người này mà hình như không nghĩ đến người kia?
* * *
Có những bài hát có ý nghĩa, và công dụng hơn chỉ là phương tiện/sản phẩm giải trí, hay nghệ thuật. Đó là những bài ca ghi lại những sự kiện xảy ra cho các nhân vật trong hoàn cảnh của thời gian & không gian như nhân chứng cho dân tộc của một quốc gia đã trải qua. “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” là một trong những nhạc phẩm thuộc loại hiếm hoi này.
Nếu đã biết như thế, những người yêu nhạc không nên chỉ để đầu óc đắm chìm trong giới hạn của lời ca & tiếng nhạc, để có khi còn thấy những sự kiện tuy không được trực tiếp kể lại, nhưng cũng thuộc những biến cố đổi đời.
© Nguyên Giao
Một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas:
– “Trước 1975 ở Việt Nam anh làm gì?”
– “Tôi trong Không quân…”
– “Chắc anh cùng lứa với ông Nguyễn Cao Kỳ?”
– “Không! ông Kỳ là cấp chỉ huy của tôi, ở Sài Gòn; Tôi đóng ở Pleiku. Tôi ngang cỡ với Lưu Kim Cương, một đàn em thân cận của ông Kỳ.”
– “A, anh biết ông Lưu Kim Cương hả? Anh có biết ông ấy chết như thế nào không?”
– “Nghe nói rất thương tâm; Trúng đạn bắn xe tăng, phổi lòi ra ngoài!”
…
* * *
Rất nhiều người đã nghe bài hát “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” từ sau biến cố Tết Mậu Thân, năm 1968, nhưng chắc ít ai biết rõ những tình tiết đưa đến sự ra đời của nhạc phẩm này, để đến cả 40 năm sau vẫn còn có người muốn tìm hiểu.
Bài hát có lời như sau:
“Anh nằm xuống, sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi
Anh nằm xuống, cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không
Bạn bè còn đó, anh biết không anh?
Người tình còn đó anh nhớ không anh?
Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên
Khi bóng anh như cánh chim, chìm xuống
Vùng trời nào đó, anh đã bay qua?
Chỉ còn lại đây những sáng bao la
Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa
Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ
Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò
Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
Những sớm mai, lửa đạn
Những máu xương chập chùng
Xin cho một người vừa nằm xuống
Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”
Với những ai không quen biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) – là tác giả bản nhạc – dù có nghe, hay đọc kỹ lời ca cũng khó có thể biết nhân vật được nói đến là ai; Chỉ biết người ấy mới qua đời, và lúc còn sống đã có dịp bay cao trên trời.
Để hiểu rõ câu chuyện, có lẽ phải nhìn lại từ năm 1962. Đó là năm nữ ca sĩ Khánh Ly (KL) thật sự bước vào cuộc đời ca hát của mình, trình diễn ở phòng trà Anh Vũ, một trong vài phòng trà ca nhạc (sống) lúc nào cũng chật ních giới thưởng ngoạn, trên đường Bùi Viện ở Sài Gòn.
Ca sĩ KL ghi lại trong “Chuyện kể sau 40 năm” – chú thích trong ngoặc đơn là của Nguyên Giao: “… Tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ, và chính ở đó, tôi gặp Trung úy Không quân Lưu Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn (người anh ruột của KL – không phải là TCS) và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn… hát tiếp những bài tôi vừa hát; Đặc biệt là bài ‘Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa’ … Anh bảo … Mai (tên thật của KL) chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa … Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vì anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này … ”
Nhưng cuối năm 1962, KL lại rời Sài Gòn lên hát cho một phòng trà khác ở Đà Lạt, và lưu lại đó 5 năm. Năm 1964, tại Đà Lạt, KL gặp một người nhạc sĩ nghèo. Anh đến với cô bình thản như cơn mưa dầm của Đà Lạt vào đêm hôm đó. Qua vài câu chuyện, cô và nhạc sĩ trở thành hai người bạn. Người bạn ấy không ai khác, đó là nhạc sĩ TCS. Rất nhiều lần TCS đề nghị KL về Sài Gòn đi hát với ông nhưng cô đều từ chối bởi cô yêu Đà Lạt, sự yên tĩnh thanh bình của Đà Lạt đã quyến luyến bước chân cô, không như Sài Gòn vốn đông người và luôn nhộn nhịp.
Đến năm 1967, ca sĩ KL tình cờ gặp lại nhạc sĩ TCS giữa giòng người đi lại trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn, vào một buổi chiều êm ả. Từ một đêm mưa của Đà Lạt đến một buổi chiều trên đường phố Sài Gòn, tất cả đã bắt đầu như đưa đẩy định mệnh.
Vài hôm sau, trên nền gạch đổ nát bãi đất rộng sau trường đại học Văn Khoa Sài Gòn, một quán lá sơ sài được dựng lên với cái tên là Quán Văn. Tại đây, giọng hát khàn đục, và lôi cuốn của KL đã làm ngẩn ngơ, bàng hoàng & ngất ngây cả một thế hệ với những bản tình ca, và Ca Khúc Da Vàng mới lạ của TCS.
Hãy nghe bà Đặng Tuyết Mai – trước là phu nhân của Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ (NCK) lúc giữ chức Thủ tướng VNCH - mô tả liên hệ giữa Lưu Kim Cương (LCK) và Trịnh Công Sơn (TCS) trong một cuộc phỏng vấn năm 2009 ở Hoa Kỳ:
“ … Anh LKC và chị rất là say mê nhạc của anh TCS và con người của anh TCS nữa. Chị hay nấu nướng. Trong Câu lạc bộ Không quân, anh LKC có một câu lạc bộ nhỏ là Mây Bốn Phương, luôn luôn kéo anh TCS vào đó. Chị đem đồ nhậu đến. Anh TCS làm được bài nhạc mới là hát, và hay tả cho nghe. Chị hay đến câu lạc bộ Mây Bốn Phương để nghe anh TCS đàn hát những bài hát mới. Giao tình của anh TCS với anh LKC rất mật thiết. Cũng lạ, một người rất là nhà binh, to lớn, cường tráng. Còn anh TCS rất là mỏng manh, ốm yếu. Nhưng hai người gần nhau vô cùng trong tình nghệ sĩ. Anh LKC có rất nhiều nghệ sĩ tính, hát rất hay. Thành ra, họ rất thân mến với nhau. Hàng tuần, họ gặp nhau hai, ba lần … “
Từ năm 1967, NCK giữ chức Phó Tổng thống VNCH, có Trung tá LKC trong số những sĩ quan thân tín Không quân chung quanh.
Đúng mùng một Tết Mậu Thân (31 tháng Giêng năm 1968), một cánh quân Việt Cộng tấn công căn cứ Không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Có mặt tại căn cứ, LKC đã “không quân đánh bộ” thành công chỉ huy dẹp tan quân địch hôm 23 tháng Hai, và được vinh thăng Đại tá.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1 Tết Mậu Thân, tới trung tuần tháng 4, 1968 Việt Cộng lại mở cuộc tổng công kích đợt 2. Nhật báo Chính Luận ở Sài Gòn trong số ra ngày mùng 7, tháng 5, năm 1968 đăng tin: “Sáng ngày mùng 2 tháng 5 vào hồi 10 giờ, Ðại tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Ðoàn 33 đã bị tử thương trong lúc ông đương đích thân chỉ huy một đơn vị bảo vệ vòng đai phi trường để đẩy lui một cánh quân Việt Cộng tại khu nghĩa trang Pháp gần ngã tư Bảy Hiền. Ông đã bị một tên Việt Cộng thủ súng B40 (phóng lựu đạn, để bắn xe tăng) vẫn còn sống, bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên.
Ðại tá Lưu Kim Cương năm nay 34 tuổi có 2 con. Ông là người rất vui tính, có nhiều máu văn nghệ, chiếm được nhiều cảm tình trong giới quân đội cũng như báo chí. Tưởng cũng nên ghi nhận đây là lần đầu tiên một sĩ quan mang cấp Tá của quân đội ta nói chung và của Không quân VN nói riêng đã hy sinh trong lúc trực chiến với địch.”
Nhà báo/Nhà văn Văn Quang có ghi lại: “Một buổi chiều năm Mậu Thân 1968, ngồi ở nhà hàng Pagode tôi gặp Khánh Ly và Ngọc Anh đi cùng Trịnh Công Sơn. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Ăn ở một quán bụi xong đã đến giờ giới nghiêm – thời gian đó Sài Gòn giới nghiêm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. Khánh Ly nhờ tôi đưa Trịnh Công Sơn về … Đêm đó là đêm đầu tiên tôi đưa Trịnh Công Sơn về building Cao Thắng. Ở cái building đó chỉ có một phòng gắn máy lạnh, là của một thương gia bán huy chương ở ngay chợ Bến Thành thuê làm phòng riêng, cho tôi ở chung nhưng không lấy tiền. Sơn mang đến cây đàn guitar, ở lại phòng tôi vài ngày, tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày. Nhưng chính ở đó anh sáng tác hoặc hoàn tất bản ‘Tình Xa’. Tôi có cái máy ghi âm hiệu Akai, trong khi tôi đi làm, Sơn vẫn thường dùng để nghe lại bản nhạc mình đang hoàn thành. Rồi chợt một hôm nghe tin Lưu Kim Cương chết ở phi trường Tân Sơn Nhất, Khánh Ly lên phòng tôi, cô ngồi lặng, Sơn chỉ nhìn và cũng lặng yên. Ít ngày sau, bài ‘Cho Một Người Vừa Nằm Xuống’ ra đời … “
LKC chỉ là một trong nhiều chiến sĩ đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam. Người ta ước tính đã có khoảng 3 triệu quân & dân hai miền chết vì cuộc chiến đó. Trong số này, đã có rất nhiều chiến sĩ trong các binh chủng khác như Thủy quân Lục chiến, Biệt kích Dù, Biệt động quân, v.v. của VNCH đã chết trận. Khác với hai sĩ quan cấp Tá Không quân Phạm Phú Quốc, và Lưu Kim Cương, hầu hết những hy sinh anh hùng khác – kể cả trong binh chủng Không quân – đã không được người ngoài thân nhân, hay bạn thân biết đến, vì mấy ai được/có nhạc sĩ sáng tác, ghi lại (bằng bài hát), và được cho phổ biến (trên truyền thông), để người ngoài – không phải là thân nhân – biết đến?
Mặt khác, so với các chiến sĩ đã nằm xuống, trường hợp các Tù Cải Tạo trong các nhà tù của Việt Cộng lại càng phải được ghi nhận cho đúng. Đừng quên ngay sau năm 1975, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, và viên chức VNCH đã bị tù đày, hành hạ, có người cả 20 năm. Bao nhiêu gia đình đã tan tác? Một số tù nhân đã chết trong tù vì bệnh hoạn, hay kiệt sức. Những chịu đựng, và hy sinh của những người tù lay lứt sống còn hình như đã không được ghi nhận tương xứng so với những bạn đồng ngũ nổi danh đã nằm xuống.
Hơn 35 năm sau biến cố 1975, một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas, tình cờ tôi đã được trao đổi vài ba câu chuyện với một cựu sĩ quan Không quân cùng lứa với cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương. Có khác chăng chỉ là người còn sống đã trải qua 13 năm tù cải tạo, và chỉ muốn quên đi quãng đời thanh xuân mà ông coi là đã bị phí phạm.
Còn bao nhiêu cựu tù chưa có dịp giải tỏa chuyện đời của họ? Cũng đều là vì nước, giữa đột ngột chết trận, và sống còn với thể xác suy yếu & tâm thần gẫy đổ sau nhiều năm bị kẻ thù đầy đoạ & hạ nhục, thử hỏi: Ai trần ai hơn ai? Và như vậy, sao đã vinh danh người này mà hình như không nghĩ đến người kia?
* * *
Có những bài hát có ý nghĩa, và công dụng hơn chỉ là phương tiện/sản phẩm giải trí, hay nghệ thuật. Đó là những bài ca ghi lại những sự kiện xảy ra cho các nhân vật trong hoàn cảnh của thời gian & không gian như nhân chứng cho dân tộc của một quốc gia đã trải qua. “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” là một trong những nhạc phẩm thuộc loại hiếm hoi này.
Nếu đã biết như thế, những người yêu nhạc không nên chỉ để đầu óc đắm chìm trong giới hạn của lời ca & tiếng nhạc, để có khi còn thấy những sự kiện tuy không được trực tiếp kể lại, nhưng cũng thuộc những biến cố đổi đời.
© Nguyên Giao
Thiên Ân (viết theo lời kể của Ðại tá Phùng Văn Chiêu)
LƠI NÓI ÐẦU:
Khi viết về những chiến công của quân chủng Không Quân, người ta thường đề cao, ca tụng giới phi hành. Ðiều đó cũng không có gì lạ bởi vì phi hành là lực lượng chiến đấu, là sức mạnh chính của Không Quân. Nhưng nói như thế không có nghĩa là giới 'không phi hành' không góp phần công lao vào những chiến tích hào hùng của quân chủng. Những người lính kỹ thuật đã âm thầm đổ mồ hôi để bảo đảm an toàn cho người phi công, những chiến sĩ phòng thủ ngày đêm vững tay súng để bảo vệ vòng đai căn cứ, v.v...
Trong Tết Mậu Thân 1968, hầu hết mọi căn cứ không quân trên lãnh thổ VNCH đều bị Việt Cộng tấn công, nhưng nặng nhất phải là căn cứ Tân Sơn Nhứt. Với lực lượng lên tới một trung đoàn, Việt Cộng tưởng sẽ tràn ngập căn cứ dễ như trở bàn tay, nhất là sau khi một tiểu đoàn gồm 300 tên đã lọt vào phi truờng. Nhưng trước sự chiến đấu quả cảm của những người lính 'không quân đánh bộ', Việt Cộng đã bị thảm bại, 187 tên bỏ xác tại trận, chưa kể một số khác được đồng bọn mang đi.
Bài này được người viết đúc kết theo lời kể lại của Ðại tá Phùng Văn Chiêu - nguyên Chỉ huy trưởng Yếu Khu Tân Sơn Nhứt, không ngoài mục đích vinh danh những chiến sĩ phòng thủ anh hùng của quân chủng Không Quân 35 năm về trước.
YẾU KHU TÂN SƠN NHỨT
Năm 1955- 1956, Không Quân Việt Nam lần lượt tiếp nhận các căn cứ do Không Quân Pháp bàn giao lại. Tân Sơn Nhứt là căn cứ thứ ba (sau Nha Trang và Biên Hòa) nên được đặt trên Căn cứ 3 KQVN. Trên phương diện lãnh thổ, Căn cứ 3 thuộc Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhứt. Yếu khu này gồm các yểu điểm sau đây:
Yếu điểm Hạnh Thông Tây
Yếu điểm TSN (Căn cứ 3 KQ)
Yếu điểm Trần Hưng Ðạo (tức Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH)
Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Tổng hành dinh Bộ TTM, Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh kiêm Chỉ huy trưởng Yếu khu.
Riêng Yếu điểm TSN gồm có:
Căn cứ 3 KQ
Căn cứ Hoàng Hoa Thám (Nhảy Dù)
Bộ chỉ huy Yếu điểm đặt tại Bộ chỉ huy phòng thủ Căn cứ 3 KQ. Sĩ quan Phòng thủ Căn cứ kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng Yếu điểm.
Căn cứ 3 KQ có một vòng đai ngoài dài 21 cây số do Tiểu Ðoàn 2 Công Vụ (TÐ2CV), được Biệt khu Thủ đô biệt phái tới để bảo vệ phi trường. Vòng đai phía trong căn cứ do Ðoàn Phòng Vệ trách nhiệm, quân số vừa đủ để canh gác cổng ra vào và tạm thời đảm nhận nhiệm vụ của Quân Cảnh để đi tuần tiễu, chỉ còn lại chừng một tiểu đội để ứng chiến.
Từ năm 1959-1960, địch quân bắt đầu gia tăng hoạt động trong Nam. Vì thế quân đội VNCH cũng được bành trướng để đối phó với tình hình mới. Tại TSN, Không Ðoàn 33 Chiến Thuật được thành lập (1965-66). Ðể làm giảm tiềm năng chiến đấu của KQ/VNCH, VC ra sức phá hoại căn cứ. Cùng với việc cho nội tuyến đặt bom phá hoại Phi cảng TSN, chúng pháo kích căn cứ quân sự bằng các loại súng cối 61, 82 ly, và cho đặc công lẻn vào phá hoại (năm 1966).
Trước tình hình đó, Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh KQ và các lực lượng Hoa Kỳ đồn trú trong Yếu khu nhận thấy cần phải cải tổ hệ thống phòng thủ lãnh thổ. Từ đó, Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhứt bị giải tán để thành lập một yếu khu mới (Yếu khu TSN) và trao trách nhiệm cho KÐ33CT. Ban đầu, Trung tá Lưu Kim Cương từ chối vì công việc riêng của KÐ đã quá nặng rồi, không thể đảm trách thêm yếu khu.
Tuy nhiên, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu sau khi phân tách lợi hại, nhận thấy nếu KÐ33CT nắm yếu khu thì căn cứ TSN có thể được an toàn hơn trước vì KÐ trực tiếp điều khiển, toàn quyền sắp xếp mọi việc , sẽ an tâm hơn, nên đề nghị Trung tá Cương nhận trọng trách. Kết quả, KÐ33CT tiếp nhận Yếu khu TSN và đặt bộ chỉ huy tại Bộ chỉ huy Phòng thủ Căn cứ TSN.
Chỉ huy trưởng Yếu khu: Trung tá Lưu Kim Cương; Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng: Thiếu tá Phùng Văn Chiêu. Ban tham mưu có các sĩ quan Ban 1, 2, 3 và Truyền tin do Biệt khu Thủ đô tăng phái.
Các yếu điểm và chi khu quân sự trực thuộc Yếu khu mới này gồm có:
Yếu điểm TSN, gồm có căn cứ KQ, căn cứ Nhảy dù (trại Hoàng Hoa Thám), khu vực dân sự và Phi cảng TSN.
Yếu điểm Hạnh Thông Tây, có Trường Quân Cụ, các trại Cổ Loa (Pháo Binh), Phù Ðổng (Thiết Giáp), Cục Quân Y và Tổng y viện Cộng Hòa.
Chi khu Gò Vấp.
Vùng hoạt động được nới rộng, xa hơn tầm pháo kích 61 và 82 ly của VC:
· Phía Bắc là Chi khu Gò Vấp đến đồng An Phú Ðông, cách căn cứ trên 4 cây số.
· Phía Tây đến ranh Hốc Môn.
· Phía Nam đến ranh Phú Lâm.
· Phía Ðông là trại Trần Hưng Ðạo (Bộ TTM).
Ngoài ra, còn có Tiểu đoàn 53 Ðịa phương quân được đặt dưới quyền sử dụng của Yếu khu để hành quân, và một Pháo đội 105 ly có trang bị hệ thống radar phản pháo, đặt ngay trong phi trường, cũng được đặt dưới sự điều động của Yếu khu.
Từ khi có Yếu khu TSN, hoạt động trong căn cứ nhộn nhịp hơn vì có nhiều bộ tư lệnh và các đơn vị Không Quân, Lục Quân Việt - Mỹ đồn trú. Vì thế, Bộ chỉ huy Phòng thủ Căn cứ được phía Hoa Kỳ tăng phái một số sĩ quan và hạ sĩ quan đến phối hợp với phía VN, và trở thành Trung tâm Phòng thủ Hành quân Hỗn hợp (JDOC: Joint Defense Operation Center).
Ngoài các cơ cấu nói trên, phía Hoa Kỳ còn yểm trợ ngân khoản để tuyển mộ 15 tình báo viên dân sự, tuyển từ hàng ngũ VC hồi chánh. Kể từ đó, lưới tình báo của yếu khu được phối trí rộng rãi, ra xa hơn để bao vùng. Lúc đó Ban 2 Yếu khu do Trung úy Nguyễn Hồng Phúc và tiếp theo là Ðại úy Huỳnh Khương An chỉ huy đã thu thập được nhiều tin tức chính xác, biết được ý định của địch từ bên ngoài để phá vỡ âm mưu của địch ở bên trong. Do đó các ổ nội tuyến trước kia từng phá hoại hai lần ở phi cảng, nay chuẩn bị tiếp tục phá hoại đều bị khám phá và bắt trọn ổ.
Bên ngoài vòng đai, TÐ53ÐPQ cũng hoạt động tích cực, bao vùng, phục kích ở những khu vực mà VC có thể đặt súng cối để pháo kích. Kết quả đã bắt được một vài toán VC trong lúc chúng đang chuẩn bị pháo kích vào căn cứ TSN. Không thể hoạt động dễ dàng như trước, VC đổi chiến thuật, sử dụng hỏa tiễn 122 ly từ ngoài vòng kiểm soát của Yếu khu để bắn vào căn cứ.
Mỗi buổi chiều, vào lúc 5 giờ, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu, Chỉ huy phó Yếu khu, lại thay mặt Trung tá Lưu Kim Cương điều khiển phiên họp tại JDOC gồm tất cả các cấp chỉ huy và sĩ quan phòng thủ Việt - Mỹ để duyệt xét tình hình. Có thể nói JDOC này trung tâm hành quân độc đáo, kiên cố nhất thời đó, do Hoa Kỳ viện trợ xây cất và trang bị. Nóc và các bức tường dày 60 cm, hỏa tiễn 122 ly không thể xuyên qua nổi. Bên trong được trang bị những phương tiện truyền tin, liên lạc tối tân nhất.
Có một lần Ðại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, hướng dẫn một phái đoàn tướng lãnh (Tr/tướng Vỹ, Th/tướng Nhơn, Th/tướng Phong) và nhiều sĩ quan cao cấp thuộc Phòng 3 Bộ TTM đến thăm viếng và quan sát hoạt động trong JDOC. Lúc đó Trung tá Lưu Kim Cương bận tháp tùng Ðại tá Võ Xuân Lành sang Hoa Kỳ viếng thăm các cơ sở của Không Lực HK nên Thiếu tá Phùng Văn Chiêu thay thế đón tiếp phái đoàn. Sau khi tham quan, Ðại tướng Viên quay lại hỏi Th/tướng Phong rằng "Bao giờ anh mới xây cất được một Trung tâm Hành quân kiên cố như thế này cho Bộ TTM?". Thiếu tướng Phong dè dặt trả lời rằng chưa có đủ tiền!
KẾ HO [1] CH PHÒNG THỦ
Vào mấy tháng cuối năm 1967 (thời gian trước Tết Mậu Thân), tin tình báo do Yếu khu TSN thu thập cho biết chắc chắn VC sẽ mở một cuộc tấn công đại quy mô vào Sài Gòn trong ba ngày ngưng bắn nhân dịp Tết nguyên đán. Theo đó, Căn cứ TSN và Bộ TTM sẽ là những mục tiêu địch sẽ đánh chiếm trước khi tiến vào đô thành Sài Gòn. Nhưng tin tức được Yếu khu báo cáo đã bị Phòng 2 Bộ TTM và Biệt khu Thủ đô đánh giá rất thấp. Các nơi này cho rằng VC không có khả năng to lớn như vậy mà chỉ có thể đánh khuấy rối để gây tiếng vang mà thôi!
Dù vậy, Yếu khu TSN vẫn đề cao cảnh giác, chỉ thị cho các đơn vị phòng thủ Việt - Mỹ chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi buổi chiều, sau phiên họp tại JDOC, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu lại đi thị sát vòng đai phòng thủ, nhất là tại các tuyến tiếp cận với dân cư, nơi VC có thể len lỏi trà trộn dễ dàng. Mặc dù đã làm việc tại BTL/KQ phụ trách hồ sơ kế hoạch phòng thủ của các căn cứ KQ trong thời gian 7 năm trời, và sau đó là 3 năm phòng thủ Căn cứ 3 (KÐ33CT), Thiếu tá Chiêu chưa bao giờ phải đối đầu với một cuộc tấn công lớn của VC, cho nên ông rất lo ngại. Ông chỉ biết làm tất cả những gì có thể làm và phó thác cho... định mệnh.
Chiều nào ông cũng về nhà ăn cơm tối và thăm bà mẹ già đau yếu đã lâu năm. Trước khi trở vào trại, ông thắp nhang trước các bàn thờ Phật Bà, Quan Công và người vợ đã qua đời của mình.
Lúc đó Thiếu tá Phùng Văn Chiêu rất dị đoan, tin tưởng vào lời các thầy tướng số cho rằng ông được Quan Công độ mạng, cho nên đêm nào ông cũng cầu xin ngài phò hộ, giúp ông giữ được căn cứ trong trường hợp VC mở cuộc tấn công thật sự. Không hiểu do đấng thiêng liêng, người khuất mặt mách bảo hay do linh tính mà Thiếu tá Chiêu đã quyết định bổ túc lại kế hoạch phòng thủ hiện tại mà trong bao năm qua chưa hề thay đổi.
Ước đoán VC sẽ thọc mũi dùi tấn công vào tuyến Tây Nam (dọc theo Quốc lộ 1 từ Bà Quẹo đến cổng trại Hoàng Hoa Thám), tại cổng ra vào có pháo đài 51 (OF 51). Tuyến này do các lực lượng của TÐ2CV trấn giữ. Ðể được an tâm hơn, Thiếu tá Chiêu đã nhờ phía Không Quân Hoa Kỳ cho một bán tiểu đội phòng vệ (AP) trang bị tối tân (có phương tiện quan sát ban đêm) tới thay thế TÐ2CV để trấn giữ pháo đài 51.
Phía bên trong, giữa hàng rào phòng thủ và bãi đậu phi cơ C-47 của Liên Ðoàn 33 Kỹ Thuật, Thiếu tá Chiêu phối trí một tuyến phòng thủ thứ hai, gọi là tuyến B, để ngăn chặn VC trong trường hợp TÐ2CV không giữ được tuyến ngoài. Lực lượng phòng thủ tại tuyến B vào khoảng 60 người. Vì hầu như tất cả đều chưa có kinh nghiệm chiến đấu , để cho họ yên tâm, Thiếu tá Chiêu đã nhờ phía Hoa Kỳ tăng cường cho tuyến B một tiểu đội AP trang bị vũ khí tối tân, có cả súng phóng lựu M79. Ngoài ra còn 5 xe GMC trang bị đại bác 20 ly phòng không phối trí rải rác dọc theo đường đai để tăng cường cho TÐ2CV, với mục đích nhờ tầm bắn xa của đại bác có thể chặn địch từ xa trước khi chúng đến hàng rào phòng thủ.
Sau khi bố trí kế hoạch mới, Thiếu tá Chiêu thường xuyên đi kiểm soát bất thần, và trắc nghiệm phản ứng của các lực lượng ứng chiến, tập đi tập lại cho tới khi đạt được phản ứng nhanh nhất...
Thời gian đó, Căn cứ TSN là nơi tập trung nhiều quân nhân và nhân viên dân sự Mỹ nhất trên lãnh thổ miền Nam. Quân nhân Mỹ (Không Quân và Lục Quân) 18.000 người; ban ngày số nhân viên dân sự Việt - Mỹ vào căn cứ làm việc là 23.000 người; phía Việt Nam, kể cả gia đình binh sĩ khoảng 5000 người. Tổng cộng 46.000 người, sinh hoạt như một thành phố.
Một đêm nọ, Trung tá Lưu Kim Cương yêu cầu Thiếu tá Phùng Văn Chiêu hướng dẫn một phái đoàn 3 nhân viên báo chí Hoa Kỳ đi tham quan hệ thống phòng thủ của Căn cứ TSN và chứng kiến phản ứng của các đơn vị ứng chiến khi có báo động. Sau đó, họ hỏi liệu Yếu khu có thể chống nổi cuộc tấn công của 7 tiểu đoàn VC không? Thiếu tá Chiêu chỉ cười và trả lời 'Ðến lúc đó các anh sẽ biết'. Tuy nói vậy, nhưng trong lòng ông rất lo.
TỔNG CÔNG KÍCH ÐƠT I:
Theo thông lệ, vào mỗi dịp đầu năm âm lịch, VNCH và VC thỏa thuận ngưng bắn 3 ngày để binh sĩ hai bên về ăn Tết với gia đình. Tuy nhiên năm nay (Mậu Thân 1968), có tin VC sẽ tấn công nên tại căn cứ TSN, các đơn vị cho binh sĩ thay phiên nhau đi phép 25% quân số. Bù lại, các lực lượng Hoa Kỳ tình nguyện cấm trại 100% để đắp vào chỗ trống.
Theo tin tình báo, VC đã cho từng toán nhỏ len lỏi vào các khu dân cư xung quanh căn cứ TSN và yếu điểm Hạnh Thông Tây. Cũng theo tin tình báo, lực lượng của chúng tham gia cuộc tổng tấn công gồm có:
9 Tiểu đoàn đánh vào Ðô thành Sài Gòn
7 Tiểu đoàn đánh vào Căn cứ TSN và Bộ TTM
1 Tiểu đoàn đặc công
12 Ðại đội do Sư Ðoàn 3 VC tăng phái để yểm trợ tổng quát.
Ðúng 9 giờ sáng mùng một Tết Mậu Thân (31-1-1968), JDOC báo cáo VC đã tấn công cố đô Huế vào đêm 30 rạng mùng một Tết, và đã tràn vào thành phố. Tức thời, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu cho lệnh báo động cấm trại 100%. Tất cả các đơn vị Việt - Mỹ đồn trú đều ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Thiếu tá Chiêu có hỏi Trung tá Cương xem ông có quyết định gì để bổ túc kế hoạch phòng thủ không, Trung tá Cương trả lời ông hoàn toàn đặt tin tưởng vào kế hoạch của Thiếu tá Chiêu, đồng thời cũng nói ông Chiêu ráng lo bảo vệ căn cứ vì bản thân ông còn rất nhiều công việc khác phải lo.
Sau khi được tin có nhiều toán nhỏ của VC lần lượt trà trộn vào các xóm nhà dân trong yếu điểm Hạnh Thông Tây (tuyến Ðông Bắc) và khu vực Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền (dọc Quốc lộ 1) nên ngay trong đêm mùng một Tết, yếu điểm TSN đã tổ chức một cuộc hành quân phối hợp giữa lực lượng phòng vệ do Trung úy Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy, Chuẩn úy Lành phụ tá, cùng với Ty Cảnh sát Quốc gia để xét sổ gia đình. Khoảng 10 giờ đêm, lực lượng hành quân báo cáo đã bắt nhiều người cư ngụ bất hợp pháp, tình nghi là VC. Trong khi đó, TÐ53ÐPQ cũng báo cáo có tin nhiều toán nhỏ VC đang tiến về phía phi trường.
Mười hai giờ đêm, Biệt khu Thủ đô cho biết VC đặt súng cối từ Thủ Thiêm bắn vào dinh Ðộc Lập. Thiếu tá Chiêu đoán có lẽ đó là dấu hiệu khởi đầu cho cuộc tổng tấn công, ông liền ra lệnh cho Trung úy Hạnh rút ngay lực lượng đang hành quân trở về căn cứ và trao những người tình nghi cho Trung đội Cảnh sát Phi Cảng thụ lý. Ðồng thời ông cho 2 Trung đội Phòng vệ cùng tiểu đội AP đế trấn tuyến phòng thủ B. Lực lượng Phòng vệ còn lại để bảo vệ JDOC và tiếp tế đạn dược. Các xe GMC phòng không trang bị đại bác 20 ly và chi đội 3 chiến xa được bố trí dọc theo phía tây vòng đai tăng cường cho TÐ2CV.
Ðể nắm vững tình hình, Yếu khu (Ðại úy Huỳnh Khương An) phái Trung úy Ðặng Lê Bia (SQ tình báo) và phụ tá là Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ đi thám thính tại Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp. Khi xe jeep đi qua Hạnh Thông Tây thì bị B-40 của VC bắn cháy, Trung úy Bia tử thương, Trung sĩ I Thọ bị chúng bắt làm tù binh.
3 giờ sáng, VC bắt đầu tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ và Ðài phát thanh Sài Gòn. Kế tiếp là cổng 2 Bộ TMM (hướng đường Võ Tánh, trục Phú Nhuận - Trung tâm Tiếp Huyết).
3 giờ 20, Ðài kiểm soát báo cáo có nhiều tiếng súng nhỏ từ tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây) bắn vào khu nhiên liệu C-130 của Hoa Kỳ (parking khu Ðông trong căn cứ TSN). Ðồng thời, VC từ phía ngoài cổng 10 (TT Tiếp Huyết) bắn vào bộ chỉ huy của TÐ2CV để yếm trợ cho TÐ2/MTGP của chúng đang phối hợp với TÐ10 Ðặc Công tiến vào bằng ngõ sân golf. Có lẽ ý định của chúng là đánh vào hông phía Tây của Bộ TTM (giáp ranh với cổng 2 của khu MACV annex) nhưng vì không am tường địa thế nên lại tiến thẳng vào khu MACV. Tại đây, VC tấn công rất mãnh liệt nhưng đã bị lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV phản công tiêu diệt: chúng đã phải để lại trên 80 xác chết và vũ khí đủ loại. Số sống sót chạy qua phía Ðông (hàng rào Bộ TTM) phối hợp với lực lượng đang tấn công cửa sau Bộ TTM (phía đường Võ Di Nguy).
Ở tuyến Tây Nam, khoảng 5 giờ sáng, VC bắt đầu dùng súng đủ loại, kể cả súng cối, bắn vào pháo đài 51 (OF 51), cùng lúc ở phía ngoài dọc theo quốc lộ 1, 4 tiểu đoàn VC giàn trận yểm trợ cho một đơn vị thuộc TÐ10 Ðặc Công phá bãi mìn, và chiếm được pháo đài 51 (do một tiểu đội AP Mỹ trấn giữ).
Lập tức, TÐ2CV gửi một trung đội có trang bị đại bác không giật 75 ly cùng 2 cố vấn Mỹ tới phản công, thêm vào đó còn có 6 đại đội Nhảy Dù từ trại Hoàng Hoa Thám tới tăng cường. Nhưng cũng không thể ngăn chặn được lực lượng quá đông của địch. Kết quả, TÐ 267 của VC đã lọt được vào căn cứ. Trong lúc hai bên cận chiến, VC đã chiếm được khẩu đại bác 75 ly của TÐ2CV rồi bắn lại gây cho một cố vấn Mỹ tử thương. Cùng lúc đó, Không Quân Hoa Kỳ cũng gửi một lực lượng AP tới để tiếp tay tái chiếm pháo đài 51, nhưng VC từ phía trong bắn ra dữ dội, phải cầm cự, chờ tới lúc chiến xa đến bắn phá mới cứu được các thương binh AP đem ra.
Trong lúc hai bên giao tranh ngoài vòng đai thì TÐ267 VC (quân số từ 300 tới 350 ) đã lọt được vào căn cứ, tiến về phía parking C-47 của LÐ33KT, nhưng đã bị lực lượng Phòng vệ chờ sẵn tại tuyến B chặn lại.
Trước đó, Thiếu tá Chiêu đã điều động chi đội 3 chiến xa của lực lượng phòng thủ chạy ra tuyến B để yểm trợ. Tại đây, chiếc của Thiếu tá Chiêu trấn giữ cánh trái, Ðại úy Chi, chi đội trưởng trấn cánh phải, chiếc còn lại trấn ngay giữa. Có chiến xa đến tăng cường, các binh sĩ phòng thủ cảm thấy an tâm hơn.
Khi địch quân tiến vào tầm tác xạ, đại bác 57 ly, đại liên 12 ly 7 trên chiến xa, súng trường, trung liên, M79 của AP dưới đất đồng loạt khai hỏa. Trước hỏa lực mãnh liệt của lực lượng phòng thủ, VC đã phải khựng lại để bố trí, một số lớn chạy vào ẩn núp trong một nghĩa trang cũ ở phía trước của tuyến B.
Lực lượng phòng thủ, kể cả các xạ thủ trên chiến xa, chưa từng đụng địch, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên trước đó Thiếu tá Chiêu rất lo ngại. Tuy nhiên sau đợt phản công đầu tiên khiến VC phải chùn bước, tinh thần binh sĩ đã lên rất cao, chiến đấu gan dạ như lính tác chiến chuyên nghiệp!
Sau này các tù binh VC bị quân ta bắt đã kể lại rằng trước khi tấn công vào Căn cứ TSN, các cấp chỉ huy của họ nói: các anh chỉ cần vào được căn cứ thì Không Quân sẽ buông súng đầu hàng hết vì họ không biết đánh giặc... Vì thế họ không thể ngờ lính KQ lại có khí thế chiến đấu cao như vậy!
Trong lúc giao tranh, chiến xa của Ðại úy Chi bị trúng B40 khiến anh bị thương một chân (sau này tàn tật vĩnh viễn). Khoảng 15 phút sau, xe của Thiếu tá Chiêu cũng bị trúng B40. Sức nổ mạnh đã làm ông và Trung sĩ I Huề, xạ thủ đại liên 12 ly 7, ngã lăn xuống đất. Anh Huề bị thương một chân vì miểng B40, còn ông Chiêu bị miểng trúng mí mắt, máu chảy lênh láng.
(Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi cùng sử dụng loại máy Motorola cầm tay, mặt sau máy được xi bạc, có lẽ phản chiếu ánh đèn đường nên VC nhận ra vị trí chiến xa, và cũng có thể vì hai người đứng trên xe nên trở thành mục tiêu?!)
Mặc dù hai chiến xa bị đạn nằm bất động nhưng vũ khí trên xe (đại bác 57 ly và đại liên 12 ly 7) còn sử dụng được nên hỏa lực vẫn tiếp tục ngăn chặn không cho địch vượt qua tuyến B để tiến vào các ụ C-47. Cũng may lúc đó trời đã tờ mờ sáng, Thiếu tá Chiêu liền gọi JDOC xin Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT cho trực thăng võ trang lên xạ kích 3 tiểu đoàn VC đang giàn quân bên ngoài hàng rào (tuyến Quốc lộ 1) với mục đích trấn áp lực lượng của chúng để cho lực lượng phòng thủ bên trong tuyến B yên tâm phản công, đẩy lui TÐ 267 của VC.
Khoảng 8 giờ sáng, đoàn chiến xa của một đơn vị kỵ binh Hoa Kỳ từ Củ Chi đến phối hợp với trực thăng võ trang tiếp tục truy kích 3 tiểu đoàn này và đơn vị yểm trợ là Tiểu đoàn 90 VC đóng tại hãng dệt Vinatexco có trang bị 12 súng cối đủ loại, ngoài ra còn có 7 phi công và 15 chuyên viên cơ khí của Không Quân Bắc Việt. Ý đồ của chúng là sau khi vào được TSN, sẽ chiếm dụng các phi cơ của KQ/VNCH để làm quân dân miền Nam thêm mất tinh thần!
Cuối cùng TÐ267 của VC đã bị lực lượng phòng vệ đẩy lui, phải tháo chạy cùng với đám tàn quân của 3 tiểu đoàn yểm trợ phía bên ngoài.
Trước đó, vào lúc khoảng 7 giờ sáng, Trung tá Lưu Kim Cương cùng toán cận vệ, hai Trung úy Chấn và Lộc thuộc Bộ tư lệnh KÐ, và thành phần còn lại của lực lượng phòng thủ như hai Trung úy Ðức, Ðạt, Chuẩn úy Thạch... ra tới nơi. Theo sau là một xe cứu thương để đưa Thiếu tá Chiêu, Ðại úy Chi, Trung sĩ I Huề vào Bệnh xá của KÐ để cấp cứu.
Trung tá Cương thay thế Thiếu tá Chiêu chỉ huy cuộc phản công. Trong lúc giao tranh, ông bị một viên đạn súng trường của VC xuyên qua bắp đùi nhưng vẫn ở lại tiếp tục chỉ huy. Một điều đáng nói nữa là các sĩ quan như Trung úy Chấn, Lộc, Ðạt và Chuẩn úy Thạch... người thì leo lên xe thiết giáp, kẻ leo lên xe GMC sử dụng các loại vũ khí một cách thành thạo như các chiến sĩ thiện chiến để yểm trợ cho cuộc phản công.
Phần Thiếu tá Chiêu, sau khi rời bệnh xá trở về JDOC thì được lệnh lên trình diện Thiếu tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh KQ, để trình bày các diễn tiến và báo cáo tình hình . Khi thấy Thiếu tá Chiêu bị băng đầu, máu còn dính trên mặt, Thiếu tướng đã ra lệnh giải tán ngay cuộc họp các Tham mưu phó và sĩ quan thuộc BTL để mọi người về lo đối phó với tình hình.
Từ BTL trở về JDOC, Thiếu tá Chiêu nhận thấy cần phải xin lực lượng tiếp viện. Nhưng Biệt khu Thủ đô trả lời rằng hiện không còn lực lượng trừ bị nào khác, vì thế Yếu khu TSN phải tự túc. Cùng lúc đó JDOC được Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp báo cáo thành Cổ Loa (Pháo Binh) và thành Phù Ðổng (Thiết Giáp) đã bị VC đánh chiếm hết, và xin tiếp viện. Thiếu tá Chiêu lại cầu cứu BKTÐ lần nữa và được trả lời: chờ có chỗ nào áp lực địch giảm, sẽ rút quân để tới giải vây cho các nơi này.
(Mãi cho đến 3, 4 ngày sau, các lực lượng TQLC và Nhảy Dù mới đến đánh giải vây. Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ, người bị VC bắt sau khi Trung úy Bia bị tử thương, nay cũng được giải thoát)
Sau khi sắp xếp mọi việc ở JDOC, Thiếu tá Chiêu trở ra mặt trận tuyến B. Vừa ra tới cửa JDOC thì gặp Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống, đến. Sau khi được Thiếu tá Chiêu cho biết Yếu khu TSN không xin được tiếp viện, ông không nghĩ ngợi, đã chỉ thị Ðại đội Nhảy Dù đang ứng chiến cho Phó TT ra ngay tuyến B để tăng viện.
Khoảng 9 giờ 30 sáng, Thiếu tá Chiêu trở ra tuyến B. Trung tá Lưu Kim Cương vẫn đang chỉ huy phản công. Thiếu tá Chiêu lên một GMC trấn cánh phải vì sợ VC từ phía Tây Nam (Bà Quẹo) đến tiếp viện. Về phần Ðại đội Dù mà Thiếu tướng Kỳ cho mượn, thay vì ra trận thì lại bố trí dọc theo hàng rào phòng thủ của căn cứ Hoàng Hoa Thám (tức cánh trái của mặt trận).
Lúc đó tại tuyến B chỉ còn lực lượng phòng vệ, 3 chiến xa (2 đã bất động) và 3 GMC trang bị phòng không 20 ly, vì Tiểu đội AP của Hoa Kỳ tăng cường đã được lệnh rút đi công tác nơi khác ngay từ lúc đầu, khi xe thiết giáp của Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi bị trúng B40.
Mãi tới khi lực lượng phòng vệ đã đẩy lui VC gần đến hàng rào phòng thủ tuyến Tây Nam thì Ðại đội Dù mới chạy ra tiếp viện. Sau này, trong buổi tiệc mừng chiến thắng tại CLB Huỳnh Hữu Bạc, khi được Thiếu tá Chiêu hỏi tại sao không ra tiếp viện sớm hơn, vị Ðại đội trưởng Dù cho biết lần đầu tiên thấy lính không quân đánh "bộ chiến" rất khá, lại chiếm ưu thế nên quân Dù không ra vội! Một lý do khác là họ sợ lính KQ chưa đánh giặc bao giờ, khi lâm trận sẽ bắn loạn xạ, có thể trúng nhầm binh sĩ của họ.
(Sau này được biết thêm là trong trận Mậu Thân đợt 1, toàn bộ lực lượng Dù đã bị tung đi các nơi trong mặt trận Ðô thành, chỉ còn lại một số rất nhỏ để bảo vệ căn cứ Hoàng Hoa Thám. Và vì căn cứ này nằm ở cánh trái của mặt trận nên sợ khi VC đánh bọc cánh trái tràn vào căn cứ sẽ mượn đường đánh qua căn cứ KQ, do đó mà quân Dù phải bảo vệ Căn cứ Hoàng Hoa Thám bằng mọi giá).
Khoảng 12 giờ trưa, toán VC cuối cùng của TÐ267 rút ra khỏi căn cứ (tuyến Tây Nam)...
Cuộc tổng công kích đợt 1 của VC vào Sài Gòn chấm dứt ngày 23-2-1968. Ðịch để lại 5520 xác chết.
Tổn thất của chúng trong trận đánh vào Yếu khu TSN như sau:
187 xác để lại trong căn cứ, do lực lượng phòng thủ tuyến B bắn chết.
82 xác nằm gần hàng rào phía ngoài (khu sân golf), gần cổng số 10 (TT Tiếp Huyết), do lực lượng Hoa Kỳ ở MACV và TÐ2CV thanh toán.
693 xác phía bên ngoài căn cứ, do Thiết giáp Hoa Kỳ từ Củ Chi đến và lực lượng phòng vệ từ trong phi trường bắn ra, xa hơn nữa là do TÐ53 ÐPQ tiêu diệt.
Tổng cộng: 962 tên bỏ xác tại trận.
Tổn thất về phía quân bạn như sau:
Tử thương: 55 (Không Quân HK: 4, Lục Quân HK: 19, KQVN: 5, Lục Quân VN: 27)
Bị thương: 147 (KQHK: 11, LQHK: 67, KQVN: 12, LQVN: 57).
Thăng thưởng trong Yếu khu:
· Không Quân: Thăng cấp Ðại tá: Trung tá Lưu Kim Cương - Thăng cấp Trung tá: Thiếu tá Phùng Văn Chiêu - Nhiều sĩ quan cấp úy, hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc lực lượng phòng thủ cũng được lên một cấp.
· Lục Quân : Một số sĩ quan chỉ huy yếu điểm, chi khu, TÐ2CV, TÐ53ÐPQ và một số sĩ quan, HSQ, binh sĩ được lên một cấp.
· Ðặc biệt, Ðại tá Cương và Trung tá Chiêu còn được Ðại tướng Tư lệnh Ðệ Thất Không Lực Hoa Kỳ trao tặng huy chương Anh dũng bội tinh Silver Star with V. Mười chiến sĩ KQ khác thuộc LÐ Phòng Thủ TSN được trao tặng Bronze Star with V.
Cuộc phản công đẩy lui VC tại tuyến phòng thủ B trong căn cứ TSN phải được xem là một chiến thắng "vô tiền khoáng hậu" của các chiến sĩ phòng thủ. Ðịch bỏ lại 187 xác chết (chưa kể một số khác được đồng bọn mang đi) trong khi chỉ có 5 chiến sĩ KQVN hy sinh.
Trong số này có những trường hợp đáng được đặc biệt đề cao là:
Trung sĩ I Huề , xạ thủ đại liên 12 ly 7 trên chiến xa , sau khi bị thương và được đưa vào Bệnh xá băng bó cầm máu, đã tình nguyện trở lại tuyến B để tiếp tục chiến đấu.
Một Hạ sĩ phòng vệ (không nhớ tên), nhà chỉ có một mẹ góa con côi, đang nghỉ phép ở nhà, khi nghe tin căn cứ TSN bị tấn công đã từ giã mẹ già trở về đơn vị để chiến đấu bên cạnh đồng đội.
Cả hai chiến sĩ KQ nói trên đã anh dũng hy sinh tại tuyến phòng thủ B.
Trong số những chiến sĩ bị thương có Trung sĩ I Lữ Bá Phương thuộc Ban 2 Yếu khu TSN, đang đi công tác xa cũng chạy về tham chiến. Tinh thần của anh cũng rất đáng được đề cao.
Ba chiến sĩ nói trên, cùng với những chiến sĩ KQ khác đã hy sinh hoặc bị thương trong trận này, xứng đáng được gọi là những anh hùng như bất cứ anh hùng phi hành nào trong quân chủng, nhưng trong suốt 35 năm qua lại chưa một lần được nhắc tên. Thật đáng buồn!
TỔNG CÔNG KÍCH ÐƠT 2:
Mặc dù VC bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1, tới trung tuần tháng 4-1968 đã có tin cho biết chúng sẽ mở cuộc tấn công đợt 2. Tin tình báo còn cho biết Căn cứ TSN vẫn là một trong những mục tiêu hàng đầu của chúng.
Theo sự ước đoán của Trung tá Phùng Văn Chiêu, nếu tấn công căn cứ lần nữa, VC sẽ không nhắm mũi dùi vào tuyến Tây Nam (pháo đài OF51) như lần trước, mà sẽ đánh vào các tuyến có nhiều dân cư sống bên ngoài hàng rào, như các tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây), Ðông Nam (Ngã tư Bảy Hiền).
Mặt Ðông Bắc, khu C-130 có kho nhiên liệu, do các lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV trấn giữ, được tăng cường một đơn vị quân khuyển hàng đêm đi tuần dọc theo đường đai phòng thủ.
Mặt Tây Nam tuy trống trải nhưng được quân ta tăng cường mạnh mẽ, và có một đơn vị Hoa Kỳ phối hợp với TÐ2CV giàn quân dọc đường đai nên VC cũng khó mà đánh vào tuyến này.
Như vậy, nếu chúng muốn đánh vào căn cứ theo hướng Ðông Nam thì sẽ lợi dụng khoảng từ Ngã Tư Bảy Hiền tới trại Hoàng Hoa Thám. Do linh tính, Trung tá Chiêu đã đoán trước ý định của VC . Vì thế, chiều nào ông cũng điều động quân của TÐ2CV và 3 chiến xa chạy qua chạy lại trên tuyến Tây Nam, nhưng sau khi trời tối thì cho các GMC trang bị đại bác 20 ly ra thay thế, và rút thiết giáp vào trấn phía sau khu nhà dân ở Ngã Tư Bảy Hiền cùng với 2 Trung đội Phòng vệ. Trên nóc trường Quốc Gia Nghĩa Tử gần đó, một bán tiểu đội Quân Báo trang bị trung liên do Thiếu tá Huỳnh Khương An điều động.
Sáng ngày 2-5-1968, khi trời còn tối, mọi người đang yên giấc thì có nhiều toán VC tập họp tại nghĩa trang Pháp thành một lực lượng khoảng một Ðại đội nhẹ. Bất ngờ, trung liên trên nóc trường QGNT, chiến xa và lực lượng phía bên trong rào đồng loạt nhả đạn, khiến chúng hoảng hốt, tiến thối lưỡng nan, đành nằm chịu trận, không dám đứng dậy hay chạy đi đâu cả. Tiếp theo, trực thăng võ trang do Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT gửi đến tiếp ứng. Bị bốn mặt giáp công, toàn bộ lực lượng VC đã bị tiêu diệt.
Trước đó, khoảng 7 giờ 30 sáng, Ðại tá Lưu Kim Cương đến JDOC thăm hỏi tình hình và hỏi Trung tá Chiêu xem ông có thể ra mặt trận được không. Trung tá Chiêu trả lời mục tiêu thanh toán gần xong rồi, nếu ông có ra thì cũng chỉ quan sát thôi, để cho lực lượng phòng thủ và thiết giáp giải quyết mục tiêu cũng đủ rồi. Vì thế Ðại tá Cương chỉ ra đứng trên đài quan sát gần cổng Phi Long đặt ống nhòm quan sát.
Nhưng khi Trung úy Hạnh, chỉ huy lực Phòng vệ được lệnh JDOC cho xung phong thu dọn chiến trường, khi chạy ngang đài quan sát thấy Ðại tá Cương, một binh sĩ Phòng vệ đã la lớn 'Xung phong Ðại tá!'. Anh ta lập lại đến đôi ba lần. Tức thời Ðại tá Cương leo xuống đất. Rồi không biết vì muốn hòa mình, muốn làm gương cho binh sĩ, hoặc thấy trận chiến đã gần chấm dứt, ông hiên ngang chạy trước tiên, tay cầm súng lục bắn về phía nghĩa trang!
Không may, có một tên VC thủ súng B40 vẫn còn sống. Y liền bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên cạnh ông.
Trận đánh này, lực lượng ta chiến thắng một cách dễ dàng nhưng Ðại tá Tư Lệnh KÐ33CT lại hy sinh. Toàn thể quân nhân các cấp trong Yếu khu TSN vô cùng đau lòng, thương tiếc vị Chỉ huy trưởng anh hùng. Cố Ðại tá Lưu Kim Cương được vinh thăng Chuẩn tướng.
Ðến nay dù đã 35 năm trôi qua, mỗi khi nghe lại bản Cho một người nằm xuống, mọi người vẫn còn bùi ngùi thương tiếc...
Sau khi Chuẩn tướng Lưu Kim Cương qua đời, Trung tá Phùng Văn Chiêu trao quyền Liên đoàn trưởng 33 Phòng thủ cho Trung tá Lê Văn Triệu, còn ông thay thế Chuẩn tướng Cương trong 2 chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN và Khu quân sự TSN.
Ðầu năm 1970, khi Trung tá Chiêu được lệnh đi nhận chức Không đoàn trưởng Yểm cứ Biên Hòa, hai chức vụ nói trên được trao lại cho Ðại tá Phan Phụng Tiên.
NHNG UẨN KHÚC...
Theo lời Ðại tá Phùng Văn Chiêu, sau này trong dư luận Không Quân không hiểu có người cố tình xuyên tạc hay vì một nguyên nhân nào khác, đã chỉ trích rằng: tại sao ngày đó Trung tá Chiêu không ra trận mà lại để cho Ðại tá Cương ra để rồi bị tử thương!
Ðại tá Chiêu cho biết ông rất buồn trước dư luận này, nhưng trong suốt 35 năm qua, ông im lặng để mọi người muốn hiểu sao cũng được. Ðiều quan trọng đối với ông, chỉ cần vong hồn cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương biết là đủ rồi.
Sau đó ít lâu, trong lễ tiễn đưa linh cữu cố Ðại tá Phó Quốc Trụ tại sân cờ BCH/TÐ2CV (Ðại tá Trụ tử thương vì bị trực thăng Mỹ bắn lầm tại Chợ Lớn), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (Phó tổng thống) đã nói với Trung tá Chiêu rằng cấp chỉ huy KQ chẳng còn bao nhiêu, đừng xung phong nữa, để cho các sĩ quan dưới quyền đảm trách, khi nào cần thiết lắm thì cấp chỉ huy mới phải ra tuyến đầu!
Lời khuyên chân tình của một cấp lãnh đạo như Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khiến ông Chiêu được an ủi rất nhiều trước những lời chỉ trích trong dư luận...
Ngoài ra còn một việc mà cho tới nay, Ðại tá Chiêu vẫn thắc mắc và không thể quên, là trong cuộc tấn công đợt 1 của VC, ngoài các sĩ quan có trách nhiệm phòng thủ, có một sĩ quan bên Liên Ðoàn 33 Kỹ Thuật là Thiếu tá Nguyễn Dương, trong suốt thời gian trận chiến diễn ra ở TSN (1 tuần lễ) đã luôn luôn hiện diện, hướng dẫn cho binh sĩ dưới quyền kỹ thuật tác chiến, phân công, đôn đốc trong việc bảo vệ các ụ C-47 cũng như đáp ứng nhu cầu hành quân cấp bách.
Nếu ngày đó TÐ267 của VC vượt qua được tuyến phòng thủ B, thì chỉ còn 50 m nữa là tới các ụ C-47 và khu kỹ thuật, chắc chắn Thiếu tá Nguyễn Dương và anh em binh sĩ kỹ thuật sẽ bị chúng tiêu diệt. Sau đó, Ðại tá Lưu Kim Cương đã đề nghị thăng cấp Trung tá đặc cách mặt trận cho Thiếu tá Nguyễn Dương. Nhưng rồi trong số những vị Thiếu tá tiến ra trước mặt Thiếu tướng Tư lệnh KQ Trần Văn Minh để được gắn cấp bậc Trung tá nhờ công trạng trong Tết Mậu Thân đã không hề có Thiếu tá Nguyễn Dương mà có vài sĩ quan khác không thuộc KÐ33CT, cũng không có công trạng, nhưng lại được thăng cấp.
Chuyện xảy ra đã 35 năm, Ðại tá Phùng Văn Chiêu không bao giờ muốn nhắc lại, nhưng vì có lời yêu cầu của Ban Thực Hiện Quân Sử Không Quân , cũng là Ban Biên Tập đặc san Lý Tưởng - Úc Châu, ông mới kể lại đầy đủ - chuyện vui cũng như chuyện buồn.
Dĩ nhiên, sau 35 năm, ký ức của một người đã ở vào tuổi 'cổ lai hi' có thể không được đầy đủ và chính xác 100%. Vì thế, người viết xin chuyển đạt lời tâm tình của Ðại tá: nếu có những thiếu sót, hoặc vô tình làm buồn lòng một vài cá nhân trong quân chủng, ông chân thành cầu mong một sự thông cảm, và miễn chấp.
*Sưu tầm
LƠI NÓI ÐẦU:
Khi viết về những chiến công của quân chủng Không Quân, người ta thường đề cao, ca tụng giới phi hành. Ðiều đó cũng không có gì lạ bởi vì phi hành là lực lượng chiến đấu, là sức mạnh chính của Không Quân. Nhưng nói như thế không có nghĩa là giới 'không phi hành' không góp phần công lao vào những chiến tích hào hùng của quân chủng. Những người lính kỹ thuật đã âm thầm đổ mồ hôi để bảo đảm an toàn cho người phi công, những chiến sĩ phòng thủ ngày đêm vững tay súng để bảo vệ vòng đai căn cứ, v.v...
Trong Tết Mậu Thân 1968, hầu hết mọi căn cứ không quân trên lãnh thổ VNCH đều bị Việt Cộng tấn công, nhưng nặng nhất phải là căn cứ Tân Sơn Nhứt. Với lực lượng lên tới một trung đoàn, Việt Cộng tưởng sẽ tràn ngập căn cứ dễ như trở bàn tay, nhất là sau khi một tiểu đoàn gồm 300 tên đã lọt vào phi truờng. Nhưng trước sự chiến đấu quả cảm của những người lính 'không quân đánh bộ', Việt Cộng đã bị thảm bại, 187 tên bỏ xác tại trận, chưa kể một số khác được đồng bọn mang đi.
Bài này được người viết đúc kết theo lời kể lại của Ðại tá Phùng Văn Chiêu - nguyên Chỉ huy trưởng Yếu Khu Tân Sơn Nhứt, không ngoài mục đích vinh danh những chiến sĩ phòng thủ anh hùng của quân chủng Không Quân 35 năm về trước.
YẾU KHU TÂN SƠN NHỨT
Năm 1955- 1956, Không Quân Việt Nam lần lượt tiếp nhận các căn cứ do Không Quân Pháp bàn giao lại. Tân Sơn Nhứt là căn cứ thứ ba (sau Nha Trang và Biên Hòa) nên được đặt trên Căn cứ 3 KQVN. Trên phương diện lãnh thổ, Căn cứ 3 thuộc Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhứt. Yếu khu này gồm các yểu điểm sau đây:
Yếu điểm Hạnh Thông Tây
Yếu điểm TSN (Căn cứ 3 KQ)
Yếu điểm Trần Hưng Ðạo (tức Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH)
Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Tổng hành dinh Bộ TTM, Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh kiêm Chỉ huy trưởng Yếu khu.
Riêng Yếu điểm TSN gồm có:
Căn cứ 3 KQ
Căn cứ Hoàng Hoa Thám (Nhảy Dù)
Bộ chỉ huy Yếu điểm đặt tại Bộ chỉ huy phòng thủ Căn cứ 3 KQ. Sĩ quan Phòng thủ Căn cứ kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng Yếu điểm.
Căn cứ 3 KQ có một vòng đai ngoài dài 21 cây số do Tiểu Ðoàn 2 Công Vụ (TÐ2CV), được Biệt khu Thủ đô biệt phái tới để bảo vệ phi trường. Vòng đai phía trong căn cứ do Ðoàn Phòng Vệ trách nhiệm, quân số vừa đủ để canh gác cổng ra vào và tạm thời đảm nhận nhiệm vụ của Quân Cảnh để đi tuần tiễu, chỉ còn lại chừng một tiểu đội để ứng chiến.
Từ năm 1959-1960, địch quân bắt đầu gia tăng hoạt động trong Nam. Vì thế quân đội VNCH cũng được bành trướng để đối phó với tình hình mới. Tại TSN, Không Ðoàn 33 Chiến Thuật được thành lập (1965-66). Ðể làm giảm tiềm năng chiến đấu của KQ/VNCH, VC ra sức phá hoại căn cứ. Cùng với việc cho nội tuyến đặt bom phá hoại Phi cảng TSN, chúng pháo kích căn cứ quân sự bằng các loại súng cối 61, 82 ly, và cho đặc công lẻn vào phá hoại (năm 1966).
Trước tình hình đó, Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh KQ và các lực lượng Hoa Kỳ đồn trú trong Yếu khu nhận thấy cần phải cải tổ hệ thống phòng thủ lãnh thổ. Từ đó, Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhứt bị giải tán để thành lập một yếu khu mới (Yếu khu TSN) và trao trách nhiệm cho KÐ33CT. Ban đầu, Trung tá Lưu Kim Cương từ chối vì công việc riêng của KÐ đã quá nặng rồi, không thể đảm trách thêm yếu khu.
Tuy nhiên, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu sau khi phân tách lợi hại, nhận thấy nếu KÐ33CT nắm yếu khu thì căn cứ TSN có thể được an toàn hơn trước vì KÐ trực tiếp điều khiển, toàn quyền sắp xếp mọi việc , sẽ an tâm hơn, nên đề nghị Trung tá Cương nhận trọng trách. Kết quả, KÐ33CT tiếp nhận Yếu khu TSN và đặt bộ chỉ huy tại Bộ chỉ huy Phòng thủ Căn cứ TSN.
Chỉ huy trưởng Yếu khu: Trung tá Lưu Kim Cương; Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng: Thiếu tá Phùng Văn Chiêu. Ban tham mưu có các sĩ quan Ban 1, 2, 3 và Truyền tin do Biệt khu Thủ đô tăng phái.
Các yếu điểm và chi khu quân sự trực thuộc Yếu khu mới này gồm có:
Yếu điểm TSN, gồm có căn cứ KQ, căn cứ Nhảy dù (trại Hoàng Hoa Thám), khu vực dân sự và Phi cảng TSN.
Yếu điểm Hạnh Thông Tây, có Trường Quân Cụ, các trại Cổ Loa (Pháo Binh), Phù Ðổng (Thiết Giáp), Cục Quân Y và Tổng y viện Cộng Hòa.
Chi khu Gò Vấp.
Vùng hoạt động được nới rộng, xa hơn tầm pháo kích 61 và 82 ly của VC:
· Phía Bắc là Chi khu Gò Vấp đến đồng An Phú Ðông, cách căn cứ trên 4 cây số.
· Phía Tây đến ranh Hốc Môn.
· Phía Nam đến ranh Phú Lâm.
· Phía Ðông là trại Trần Hưng Ðạo (Bộ TTM).
Ngoài ra, còn có Tiểu đoàn 53 Ðịa phương quân được đặt dưới quyền sử dụng của Yếu khu để hành quân, và một Pháo đội 105 ly có trang bị hệ thống radar phản pháo, đặt ngay trong phi trường, cũng được đặt dưới sự điều động của Yếu khu.
Từ khi có Yếu khu TSN, hoạt động trong căn cứ nhộn nhịp hơn vì có nhiều bộ tư lệnh và các đơn vị Không Quân, Lục Quân Việt - Mỹ đồn trú. Vì thế, Bộ chỉ huy Phòng thủ Căn cứ được phía Hoa Kỳ tăng phái một số sĩ quan và hạ sĩ quan đến phối hợp với phía VN, và trở thành Trung tâm Phòng thủ Hành quân Hỗn hợp (JDOC: Joint Defense Operation Center).
Ngoài các cơ cấu nói trên, phía Hoa Kỳ còn yểm trợ ngân khoản để tuyển mộ 15 tình báo viên dân sự, tuyển từ hàng ngũ VC hồi chánh. Kể từ đó, lưới tình báo của yếu khu được phối trí rộng rãi, ra xa hơn để bao vùng. Lúc đó Ban 2 Yếu khu do Trung úy Nguyễn Hồng Phúc và tiếp theo là Ðại úy Huỳnh Khương An chỉ huy đã thu thập được nhiều tin tức chính xác, biết được ý định của địch từ bên ngoài để phá vỡ âm mưu của địch ở bên trong. Do đó các ổ nội tuyến trước kia từng phá hoại hai lần ở phi cảng, nay chuẩn bị tiếp tục phá hoại đều bị khám phá và bắt trọn ổ.
Bên ngoài vòng đai, TÐ53ÐPQ cũng hoạt động tích cực, bao vùng, phục kích ở những khu vực mà VC có thể đặt súng cối để pháo kích. Kết quả đã bắt được một vài toán VC trong lúc chúng đang chuẩn bị pháo kích vào căn cứ TSN. Không thể hoạt động dễ dàng như trước, VC đổi chiến thuật, sử dụng hỏa tiễn 122 ly từ ngoài vòng kiểm soát của Yếu khu để bắn vào căn cứ.
Mỗi buổi chiều, vào lúc 5 giờ, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu, Chỉ huy phó Yếu khu, lại thay mặt Trung tá Lưu Kim Cương điều khiển phiên họp tại JDOC gồm tất cả các cấp chỉ huy và sĩ quan phòng thủ Việt - Mỹ để duyệt xét tình hình. Có thể nói JDOC này trung tâm hành quân độc đáo, kiên cố nhất thời đó, do Hoa Kỳ viện trợ xây cất và trang bị. Nóc và các bức tường dày 60 cm, hỏa tiễn 122 ly không thể xuyên qua nổi. Bên trong được trang bị những phương tiện truyền tin, liên lạc tối tân nhất.
Có một lần Ðại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, hướng dẫn một phái đoàn tướng lãnh (Tr/tướng Vỹ, Th/tướng Nhơn, Th/tướng Phong) và nhiều sĩ quan cao cấp thuộc Phòng 3 Bộ TTM đến thăm viếng và quan sát hoạt động trong JDOC. Lúc đó Trung tá Lưu Kim Cương bận tháp tùng Ðại tá Võ Xuân Lành sang Hoa Kỳ viếng thăm các cơ sở của Không Lực HK nên Thiếu tá Phùng Văn Chiêu thay thế đón tiếp phái đoàn. Sau khi tham quan, Ðại tướng Viên quay lại hỏi Th/tướng Phong rằng "Bao giờ anh mới xây cất được một Trung tâm Hành quân kiên cố như thế này cho Bộ TTM?". Thiếu tướng Phong dè dặt trả lời rằng chưa có đủ tiền!
KẾ HO [1] CH PHÒNG THỦ
Vào mấy tháng cuối năm 1967 (thời gian trước Tết Mậu Thân), tin tình báo do Yếu khu TSN thu thập cho biết chắc chắn VC sẽ mở một cuộc tấn công đại quy mô vào Sài Gòn trong ba ngày ngưng bắn nhân dịp Tết nguyên đán. Theo đó, Căn cứ TSN và Bộ TTM sẽ là những mục tiêu địch sẽ đánh chiếm trước khi tiến vào đô thành Sài Gòn. Nhưng tin tức được Yếu khu báo cáo đã bị Phòng 2 Bộ TTM và Biệt khu Thủ đô đánh giá rất thấp. Các nơi này cho rằng VC không có khả năng to lớn như vậy mà chỉ có thể đánh khuấy rối để gây tiếng vang mà thôi!
Dù vậy, Yếu khu TSN vẫn đề cao cảnh giác, chỉ thị cho các đơn vị phòng thủ Việt - Mỹ chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi buổi chiều, sau phiên họp tại JDOC, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu lại đi thị sát vòng đai phòng thủ, nhất là tại các tuyến tiếp cận với dân cư, nơi VC có thể len lỏi trà trộn dễ dàng. Mặc dù đã làm việc tại BTL/KQ phụ trách hồ sơ kế hoạch phòng thủ của các căn cứ KQ trong thời gian 7 năm trời, và sau đó là 3 năm phòng thủ Căn cứ 3 (KÐ33CT), Thiếu tá Chiêu chưa bao giờ phải đối đầu với một cuộc tấn công lớn của VC, cho nên ông rất lo ngại. Ông chỉ biết làm tất cả những gì có thể làm và phó thác cho... định mệnh.
Chiều nào ông cũng về nhà ăn cơm tối và thăm bà mẹ già đau yếu đã lâu năm. Trước khi trở vào trại, ông thắp nhang trước các bàn thờ Phật Bà, Quan Công và người vợ đã qua đời của mình.
Lúc đó Thiếu tá Phùng Văn Chiêu rất dị đoan, tin tưởng vào lời các thầy tướng số cho rằng ông được Quan Công độ mạng, cho nên đêm nào ông cũng cầu xin ngài phò hộ, giúp ông giữ được căn cứ trong trường hợp VC mở cuộc tấn công thật sự. Không hiểu do đấng thiêng liêng, người khuất mặt mách bảo hay do linh tính mà Thiếu tá Chiêu đã quyết định bổ túc lại kế hoạch phòng thủ hiện tại mà trong bao năm qua chưa hề thay đổi.
Ước đoán VC sẽ thọc mũi dùi tấn công vào tuyến Tây Nam (dọc theo Quốc lộ 1 từ Bà Quẹo đến cổng trại Hoàng Hoa Thám), tại cổng ra vào có pháo đài 51 (OF 51). Tuyến này do các lực lượng của TÐ2CV trấn giữ. Ðể được an tâm hơn, Thiếu tá Chiêu đã nhờ phía Không Quân Hoa Kỳ cho một bán tiểu đội phòng vệ (AP) trang bị tối tân (có phương tiện quan sát ban đêm) tới thay thế TÐ2CV để trấn giữ pháo đài 51.
Phía bên trong, giữa hàng rào phòng thủ và bãi đậu phi cơ C-47 của Liên Ðoàn 33 Kỹ Thuật, Thiếu tá Chiêu phối trí một tuyến phòng thủ thứ hai, gọi là tuyến B, để ngăn chặn VC trong trường hợp TÐ2CV không giữ được tuyến ngoài. Lực lượng phòng thủ tại tuyến B vào khoảng 60 người. Vì hầu như tất cả đều chưa có kinh nghiệm chiến đấu , để cho họ yên tâm, Thiếu tá Chiêu đã nhờ phía Hoa Kỳ tăng cường cho tuyến B một tiểu đội AP trang bị vũ khí tối tân, có cả súng phóng lựu M79. Ngoài ra còn 5 xe GMC trang bị đại bác 20 ly phòng không phối trí rải rác dọc theo đường đai để tăng cường cho TÐ2CV, với mục đích nhờ tầm bắn xa của đại bác có thể chặn địch từ xa trước khi chúng đến hàng rào phòng thủ.
Sau khi bố trí kế hoạch mới, Thiếu tá Chiêu thường xuyên đi kiểm soát bất thần, và trắc nghiệm phản ứng của các lực lượng ứng chiến, tập đi tập lại cho tới khi đạt được phản ứng nhanh nhất...
Thời gian đó, Căn cứ TSN là nơi tập trung nhiều quân nhân và nhân viên dân sự Mỹ nhất trên lãnh thổ miền Nam. Quân nhân Mỹ (Không Quân và Lục Quân) 18.000 người; ban ngày số nhân viên dân sự Việt - Mỹ vào căn cứ làm việc là 23.000 người; phía Việt Nam, kể cả gia đình binh sĩ khoảng 5000 người. Tổng cộng 46.000 người, sinh hoạt như một thành phố.
Một đêm nọ, Trung tá Lưu Kim Cương yêu cầu Thiếu tá Phùng Văn Chiêu hướng dẫn một phái đoàn 3 nhân viên báo chí Hoa Kỳ đi tham quan hệ thống phòng thủ của Căn cứ TSN và chứng kiến phản ứng của các đơn vị ứng chiến khi có báo động. Sau đó, họ hỏi liệu Yếu khu có thể chống nổi cuộc tấn công của 7 tiểu đoàn VC không? Thiếu tá Chiêu chỉ cười và trả lời 'Ðến lúc đó các anh sẽ biết'. Tuy nói vậy, nhưng trong lòng ông rất lo.
TỔNG CÔNG KÍCH ÐƠT I:
Theo thông lệ, vào mỗi dịp đầu năm âm lịch, VNCH và VC thỏa thuận ngưng bắn 3 ngày để binh sĩ hai bên về ăn Tết với gia đình. Tuy nhiên năm nay (Mậu Thân 1968), có tin VC sẽ tấn công nên tại căn cứ TSN, các đơn vị cho binh sĩ thay phiên nhau đi phép 25% quân số. Bù lại, các lực lượng Hoa Kỳ tình nguyện cấm trại 100% để đắp vào chỗ trống.
Theo tin tình báo, VC đã cho từng toán nhỏ len lỏi vào các khu dân cư xung quanh căn cứ TSN và yếu điểm Hạnh Thông Tây. Cũng theo tin tình báo, lực lượng của chúng tham gia cuộc tổng tấn công gồm có:
9 Tiểu đoàn đánh vào Ðô thành Sài Gòn
7 Tiểu đoàn đánh vào Căn cứ TSN và Bộ TTM
1 Tiểu đoàn đặc công
12 Ðại đội do Sư Ðoàn 3 VC tăng phái để yểm trợ tổng quát.
Ðúng 9 giờ sáng mùng một Tết Mậu Thân (31-1-1968), JDOC báo cáo VC đã tấn công cố đô Huế vào đêm 30 rạng mùng một Tết, và đã tràn vào thành phố. Tức thời, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu cho lệnh báo động cấm trại 100%. Tất cả các đơn vị Việt - Mỹ đồn trú đều ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Thiếu tá Chiêu có hỏi Trung tá Cương xem ông có quyết định gì để bổ túc kế hoạch phòng thủ không, Trung tá Cương trả lời ông hoàn toàn đặt tin tưởng vào kế hoạch của Thiếu tá Chiêu, đồng thời cũng nói ông Chiêu ráng lo bảo vệ căn cứ vì bản thân ông còn rất nhiều công việc khác phải lo.
Sau khi được tin có nhiều toán nhỏ của VC lần lượt trà trộn vào các xóm nhà dân trong yếu điểm Hạnh Thông Tây (tuyến Ðông Bắc) và khu vực Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền (dọc Quốc lộ 1) nên ngay trong đêm mùng một Tết, yếu điểm TSN đã tổ chức một cuộc hành quân phối hợp giữa lực lượng phòng vệ do Trung úy Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy, Chuẩn úy Lành phụ tá, cùng với Ty Cảnh sát Quốc gia để xét sổ gia đình. Khoảng 10 giờ đêm, lực lượng hành quân báo cáo đã bắt nhiều người cư ngụ bất hợp pháp, tình nghi là VC. Trong khi đó, TÐ53ÐPQ cũng báo cáo có tin nhiều toán nhỏ VC đang tiến về phía phi trường.
Mười hai giờ đêm, Biệt khu Thủ đô cho biết VC đặt súng cối từ Thủ Thiêm bắn vào dinh Ðộc Lập. Thiếu tá Chiêu đoán có lẽ đó là dấu hiệu khởi đầu cho cuộc tổng tấn công, ông liền ra lệnh cho Trung úy Hạnh rút ngay lực lượng đang hành quân trở về căn cứ và trao những người tình nghi cho Trung đội Cảnh sát Phi Cảng thụ lý. Ðồng thời ông cho 2 Trung đội Phòng vệ cùng tiểu đội AP đế trấn tuyến phòng thủ B. Lực lượng Phòng vệ còn lại để bảo vệ JDOC và tiếp tế đạn dược. Các xe GMC phòng không trang bị đại bác 20 ly và chi đội 3 chiến xa được bố trí dọc theo phía tây vòng đai tăng cường cho TÐ2CV.
Ðể nắm vững tình hình, Yếu khu (Ðại úy Huỳnh Khương An) phái Trung úy Ðặng Lê Bia (SQ tình báo) và phụ tá là Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ đi thám thính tại Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp. Khi xe jeep đi qua Hạnh Thông Tây thì bị B-40 của VC bắn cháy, Trung úy Bia tử thương, Trung sĩ I Thọ bị chúng bắt làm tù binh.
3 giờ sáng, VC bắt đầu tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ và Ðài phát thanh Sài Gòn. Kế tiếp là cổng 2 Bộ TMM (hướng đường Võ Tánh, trục Phú Nhuận - Trung tâm Tiếp Huyết).
3 giờ 20, Ðài kiểm soát báo cáo có nhiều tiếng súng nhỏ từ tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây) bắn vào khu nhiên liệu C-130 của Hoa Kỳ (parking khu Ðông trong căn cứ TSN). Ðồng thời, VC từ phía ngoài cổng 10 (TT Tiếp Huyết) bắn vào bộ chỉ huy của TÐ2CV để yếm trợ cho TÐ2/MTGP của chúng đang phối hợp với TÐ10 Ðặc Công tiến vào bằng ngõ sân golf. Có lẽ ý định của chúng là đánh vào hông phía Tây của Bộ TTM (giáp ranh với cổng 2 của khu MACV annex) nhưng vì không am tường địa thế nên lại tiến thẳng vào khu MACV. Tại đây, VC tấn công rất mãnh liệt nhưng đã bị lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV phản công tiêu diệt: chúng đã phải để lại trên 80 xác chết và vũ khí đủ loại. Số sống sót chạy qua phía Ðông (hàng rào Bộ TTM) phối hợp với lực lượng đang tấn công cửa sau Bộ TTM (phía đường Võ Di Nguy).
Ở tuyến Tây Nam, khoảng 5 giờ sáng, VC bắt đầu dùng súng đủ loại, kể cả súng cối, bắn vào pháo đài 51 (OF 51), cùng lúc ở phía ngoài dọc theo quốc lộ 1, 4 tiểu đoàn VC giàn trận yểm trợ cho một đơn vị thuộc TÐ10 Ðặc Công phá bãi mìn, và chiếm được pháo đài 51 (do một tiểu đội AP Mỹ trấn giữ).
Lập tức, TÐ2CV gửi một trung đội có trang bị đại bác không giật 75 ly cùng 2 cố vấn Mỹ tới phản công, thêm vào đó còn có 6 đại đội Nhảy Dù từ trại Hoàng Hoa Thám tới tăng cường. Nhưng cũng không thể ngăn chặn được lực lượng quá đông của địch. Kết quả, TÐ 267 của VC đã lọt được vào căn cứ. Trong lúc hai bên cận chiến, VC đã chiếm được khẩu đại bác 75 ly của TÐ2CV rồi bắn lại gây cho một cố vấn Mỹ tử thương. Cùng lúc đó, Không Quân Hoa Kỳ cũng gửi một lực lượng AP tới để tiếp tay tái chiếm pháo đài 51, nhưng VC từ phía trong bắn ra dữ dội, phải cầm cự, chờ tới lúc chiến xa đến bắn phá mới cứu được các thương binh AP đem ra.
Trong lúc hai bên giao tranh ngoài vòng đai thì TÐ267 VC (quân số từ 300 tới 350 ) đã lọt được vào căn cứ, tiến về phía parking C-47 của LÐ33KT, nhưng đã bị lực lượng Phòng vệ chờ sẵn tại tuyến B chặn lại.
Trước đó, Thiếu tá Chiêu đã điều động chi đội 3 chiến xa của lực lượng phòng thủ chạy ra tuyến B để yểm trợ. Tại đây, chiếc của Thiếu tá Chiêu trấn giữ cánh trái, Ðại úy Chi, chi đội trưởng trấn cánh phải, chiếc còn lại trấn ngay giữa. Có chiến xa đến tăng cường, các binh sĩ phòng thủ cảm thấy an tâm hơn.
Khi địch quân tiến vào tầm tác xạ, đại bác 57 ly, đại liên 12 ly 7 trên chiến xa, súng trường, trung liên, M79 của AP dưới đất đồng loạt khai hỏa. Trước hỏa lực mãnh liệt của lực lượng phòng thủ, VC đã phải khựng lại để bố trí, một số lớn chạy vào ẩn núp trong một nghĩa trang cũ ở phía trước của tuyến B.
Lực lượng phòng thủ, kể cả các xạ thủ trên chiến xa, chưa từng đụng địch, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên trước đó Thiếu tá Chiêu rất lo ngại. Tuy nhiên sau đợt phản công đầu tiên khiến VC phải chùn bước, tinh thần binh sĩ đã lên rất cao, chiến đấu gan dạ như lính tác chiến chuyên nghiệp!
Sau này các tù binh VC bị quân ta bắt đã kể lại rằng trước khi tấn công vào Căn cứ TSN, các cấp chỉ huy của họ nói: các anh chỉ cần vào được căn cứ thì Không Quân sẽ buông súng đầu hàng hết vì họ không biết đánh giặc... Vì thế họ không thể ngờ lính KQ lại có khí thế chiến đấu cao như vậy!
Trong lúc giao tranh, chiến xa của Ðại úy Chi bị trúng B40 khiến anh bị thương một chân (sau này tàn tật vĩnh viễn). Khoảng 15 phút sau, xe của Thiếu tá Chiêu cũng bị trúng B40. Sức nổ mạnh đã làm ông và Trung sĩ I Huề, xạ thủ đại liên 12 ly 7, ngã lăn xuống đất. Anh Huề bị thương một chân vì miểng B40, còn ông Chiêu bị miểng trúng mí mắt, máu chảy lênh láng.
(Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi cùng sử dụng loại máy Motorola cầm tay, mặt sau máy được xi bạc, có lẽ phản chiếu ánh đèn đường nên VC nhận ra vị trí chiến xa, và cũng có thể vì hai người đứng trên xe nên trở thành mục tiêu?!)
Mặc dù hai chiến xa bị đạn nằm bất động nhưng vũ khí trên xe (đại bác 57 ly và đại liên 12 ly 7) còn sử dụng được nên hỏa lực vẫn tiếp tục ngăn chặn không cho địch vượt qua tuyến B để tiến vào các ụ C-47. Cũng may lúc đó trời đã tờ mờ sáng, Thiếu tá Chiêu liền gọi JDOC xin Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT cho trực thăng võ trang lên xạ kích 3 tiểu đoàn VC đang giàn quân bên ngoài hàng rào (tuyến Quốc lộ 1) với mục đích trấn áp lực lượng của chúng để cho lực lượng phòng thủ bên trong tuyến B yên tâm phản công, đẩy lui TÐ 267 của VC.
Khoảng 8 giờ sáng, đoàn chiến xa của một đơn vị kỵ binh Hoa Kỳ từ Củ Chi đến phối hợp với trực thăng võ trang tiếp tục truy kích 3 tiểu đoàn này và đơn vị yểm trợ là Tiểu đoàn 90 VC đóng tại hãng dệt Vinatexco có trang bị 12 súng cối đủ loại, ngoài ra còn có 7 phi công và 15 chuyên viên cơ khí của Không Quân Bắc Việt. Ý đồ của chúng là sau khi vào được TSN, sẽ chiếm dụng các phi cơ của KQ/VNCH để làm quân dân miền Nam thêm mất tinh thần!
Cuối cùng TÐ267 của VC đã bị lực lượng phòng vệ đẩy lui, phải tháo chạy cùng với đám tàn quân của 3 tiểu đoàn yểm trợ phía bên ngoài.
Trước đó, vào lúc khoảng 7 giờ sáng, Trung tá Lưu Kim Cương cùng toán cận vệ, hai Trung úy Chấn và Lộc thuộc Bộ tư lệnh KÐ, và thành phần còn lại của lực lượng phòng thủ như hai Trung úy Ðức, Ðạt, Chuẩn úy Thạch... ra tới nơi. Theo sau là một xe cứu thương để đưa Thiếu tá Chiêu, Ðại úy Chi, Trung sĩ I Huề vào Bệnh xá của KÐ để cấp cứu.
Trung tá Cương thay thế Thiếu tá Chiêu chỉ huy cuộc phản công. Trong lúc giao tranh, ông bị một viên đạn súng trường của VC xuyên qua bắp đùi nhưng vẫn ở lại tiếp tục chỉ huy. Một điều đáng nói nữa là các sĩ quan như Trung úy Chấn, Lộc, Ðạt và Chuẩn úy Thạch... người thì leo lên xe thiết giáp, kẻ leo lên xe GMC sử dụng các loại vũ khí một cách thành thạo như các chiến sĩ thiện chiến để yểm trợ cho cuộc phản công.
Phần Thiếu tá Chiêu, sau khi rời bệnh xá trở về JDOC thì được lệnh lên trình diện Thiếu tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh KQ, để trình bày các diễn tiến và báo cáo tình hình . Khi thấy Thiếu tá Chiêu bị băng đầu, máu còn dính trên mặt, Thiếu tướng đã ra lệnh giải tán ngay cuộc họp các Tham mưu phó và sĩ quan thuộc BTL để mọi người về lo đối phó với tình hình.
Từ BTL trở về JDOC, Thiếu tá Chiêu nhận thấy cần phải xin lực lượng tiếp viện. Nhưng Biệt khu Thủ đô trả lời rằng hiện không còn lực lượng trừ bị nào khác, vì thế Yếu khu TSN phải tự túc. Cùng lúc đó JDOC được Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp báo cáo thành Cổ Loa (Pháo Binh) và thành Phù Ðổng (Thiết Giáp) đã bị VC đánh chiếm hết, và xin tiếp viện. Thiếu tá Chiêu lại cầu cứu BKTÐ lần nữa và được trả lời: chờ có chỗ nào áp lực địch giảm, sẽ rút quân để tới giải vây cho các nơi này.
(Mãi cho đến 3, 4 ngày sau, các lực lượng TQLC và Nhảy Dù mới đến đánh giải vây. Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ, người bị VC bắt sau khi Trung úy Bia bị tử thương, nay cũng được giải thoát)
Sau khi sắp xếp mọi việc ở JDOC, Thiếu tá Chiêu trở ra mặt trận tuyến B. Vừa ra tới cửa JDOC thì gặp Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống, đến. Sau khi được Thiếu tá Chiêu cho biết Yếu khu TSN không xin được tiếp viện, ông không nghĩ ngợi, đã chỉ thị Ðại đội Nhảy Dù đang ứng chiến cho Phó TT ra ngay tuyến B để tăng viện.
Khoảng 9 giờ 30 sáng, Thiếu tá Chiêu trở ra tuyến B. Trung tá Lưu Kim Cương vẫn đang chỉ huy phản công. Thiếu tá Chiêu lên một GMC trấn cánh phải vì sợ VC từ phía Tây Nam (Bà Quẹo) đến tiếp viện. Về phần Ðại đội Dù mà Thiếu tướng Kỳ cho mượn, thay vì ra trận thì lại bố trí dọc theo hàng rào phòng thủ của căn cứ Hoàng Hoa Thám (tức cánh trái của mặt trận).
Lúc đó tại tuyến B chỉ còn lực lượng phòng vệ, 3 chiến xa (2 đã bất động) và 3 GMC trang bị phòng không 20 ly, vì Tiểu đội AP của Hoa Kỳ tăng cường đã được lệnh rút đi công tác nơi khác ngay từ lúc đầu, khi xe thiết giáp của Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi bị trúng B40.
Mãi tới khi lực lượng phòng vệ đã đẩy lui VC gần đến hàng rào phòng thủ tuyến Tây Nam thì Ðại đội Dù mới chạy ra tiếp viện. Sau này, trong buổi tiệc mừng chiến thắng tại CLB Huỳnh Hữu Bạc, khi được Thiếu tá Chiêu hỏi tại sao không ra tiếp viện sớm hơn, vị Ðại đội trưởng Dù cho biết lần đầu tiên thấy lính không quân đánh "bộ chiến" rất khá, lại chiếm ưu thế nên quân Dù không ra vội! Một lý do khác là họ sợ lính KQ chưa đánh giặc bao giờ, khi lâm trận sẽ bắn loạn xạ, có thể trúng nhầm binh sĩ của họ.
(Sau này được biết thêm là trong trận Mậu Thân đợt 1, toàn bộ lực lượng Dù đã bị tung đi các nơi trong mặt trận Ðô thành, chỉ còn lại một số rất nhỏ để bảo vệ căn cứ Hoàng Hoa Thám. Và vì căn cứ này nằm ở cánh trái của mặt trận nên sợ khi VC đánh bọc cánh trái tràn vào căn cứ sẽ mượn đường đánh qua căn cứ KQ, do đó mà quân Dù phải bảo vệ Căn cứ Hoàng Hoa Thám bằng mọi giá).
Khoảng 12 giờ trưa, toán VC cuối cùng của TÐ267 rút ra khỏi căn cứ (tuyến Tây Nam)...
Cuộc tổng công kích đợt 1 của VC vào Sài Gòn chấm dứt ngày 23-2-1968. Ðịch để lại 5520 xác chết.
Tổn thất của chúng trong trận đánh vào Yếu khu TSN như sau:
187 xác để lại trong căn cứ, do lực lượng phòng thủ tuyến B bắn chết.
82 xác nằm gần hàng rào phía ngoài (khu sân golf), gần cổng số 10 (TT Tiếp Huyết), do lực lượng Hoa Kỳ ở MACV và TÐ2CV thanh toán.
693 xác phía bên ngoài căn cứ, do Thiết giáp Hoa Kỳ từ Củ Chi đến và lực lượng phòng vệ từ trong phi trường bắn ra, xa hơn nữa là do TÐ53 ÐPQ tiêu diệt.
Tổng cộng: 962 tên bỏ xác tại trận.
Tổn thất về phía quân bạn như sau:
Tử thương: 55 (Không Quân HK: 4, Lục Quân HK: 19, KQVN: 5, Lục Quân VN: 27)
Bị thương: 147 (KQHK: 11, LQHK: 67, KQVN: 12, LQVN: 57).
Thăng thưởng trong Yếu khu:
· Không Quân: Thăng cấp Ðại tá: Trung tá Lưu Kim Cương - Thăng cấp Trung tá: Thiếu tá Phùng Văn Chiêu - Nhiều sĩ quan cấp úy, hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc lực lượng phòng thủ cũng được lên một cấp.
· Lục Quân : Một số sĩ quan chỉ huy yếu điểm, chi khu, TÐ2CV, TÐ53ÐPQ và một số sĩ quan, HSQ, binh sĩ được lên một cấp.
· Ðặc biệt, Ðại tá Cương và Trung tá Chiêu còn được Ðại tướng Tư lệnh Ðệ Thất Không Lực Hoa Kỳ trao tặng huy chương Anh dũng bội tinh Silver Star with V. Mười chiến sĩ KQ khác thuộc LÐ Phòng Thủ TSN được trao tặng Bronze Star with V.
Cuộc phản công đẩy lui VC tại tuyến phòng thủ B trong căn cứ TSN phải được xem là một chiến thắng "vô tiền khoáng hậu" của các chiến sĩ phòng thủ. Ðịch bỏ lại 187 xác chết (chưa kể một số khác được đồng bọn mang đi) trong khi chỉ có 5 chiến sĩ KQVN hy sinh.
Trong số này có những trường hợp đáng được đặc biệt đề cao là:
Trung sĩ I Huề , xạ thủ đại liên 12 ly 7 trên chiến xa , sau khi bị thương và được đưa vào Bệnh xá băng bó cầm máu, đã tình nguyện trở lại tuyến B để tiếp tục chiến đấu.
Một Hạ sĩ phòng vệ (không nhớ tên), nhà chỉ có một mẹ góa con côi, đang nghỉ phép ở nhà, khi nghe tin căn cứ TSN bị tấn công đã từ giã mẹ già trở về đơn vị để chiến đấu bên cạnh đồng đội.
Cả hai chiến sĩ KQ nói trên đã anh dũng hy sinh tại tuyến phòng thủ B.
Trong số những chiến sĩ bị thương có Trung sĩ I Lữ Bá Phương thuộc Ban 2 Yếu khu TSN, đang đi công tác xa cũng chạy về tham chiến. Tinh thần của anh cũng rất đáng được đề cao.
Ba chiến sĩ nói trên, cùng với những chiến sĩ KQ khác đã hy sinh hoặc bị thương trong trận này, xứng đáng được gọi là những anh hùng như bất cứ anh hùng phi hành nào trong quân chủng, nhưng trong suốt 35 năm qua lại chưa một lần được nhắc tên. Thật đáng buồn!
TỔNG CÔNG KÍCH ÐƠT 2:
Mặc dù VC bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1, tới trung tuần tháng 4-1968 đã có tin cho biết chúng sẽ mở cuộc tấn công đợt 2. Tin tình báo còn cho biết Căn cứ TSN vẫn là một trong những mục tiêu hàng đầu của chúng.
Theo sự ước đoán của Trung tá Phùng Văn Chiêu, nếu tấn công căn cứ lần nữa, VC sẽ không nhắm mũi dùi vào tuyến Tây Nam (pháo đài OF51) như lần trước, mà sẽ đánh vào các tuyến có nhiều dân cư sống bên ngoài hàng rào, như các tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây), Ðông Nam (Ngã tư Bảy Hiền).
Mặt Ðông Bắc, khu C-130 có kho nhiên liệu, do các lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV trấn giữ, được tăng cường một đơn vị quân khuyển hàng đêm đi tuần dọc theo đường đai phòng thủ.
Mặt Tây Nam tuy trống trải nhưng được quân ta tăng cường mạnh mẽ, và có một đơn vị Hoa Kỳ phối hợp với TÐ2CV giàn quân dọc đường đai nên VC cũng khó mà đánh vào tuyến này.
Như vậy, nếu chúng muốn đánh vào căn cứ theo hướng Ðông Nam thì sẽ lợi dụng khoảng từ Ngã Tư Bảy Hiền tới trại Hoàng Hoa Thám. Do linh tính, Trung tá Chiêu đã đoán trước ý định của VC . Vì thế, chiều nào ông cũng điều động quân của TÐ2CV và 3 chiến xa chạy qua chạy lại trên tuyến Tây Nam, nhưng sau khi trời tối thì cho các GMC trang bị đại bác 20 ly ra thay thế, và rút thiết giáp vào trấn phía sau khu nhà dân ở Ngã Tư Bảy Hiền cùng với 2 Trung đội Phòng vệ. Trên nóc trường Quốc Gia Nghĩa Tử gần đó, một bán tiểu đội Quân Báo trang bị trung liên do Thiếu tá Huỳnh Khương An điều động.
Sáng ngày 2-5-1968, khi trời còn tối, mọi người đang yên giấc thì có nhiều toán VC tập họp tại nghĩa trang Pháp thành một lực lượng khoảng một Ðại đội nhẹ. Bất ngờ, trung liên trên nóc trường QGNT, chiến xa và lực lượng phía bên trong rào đồng loạt nhả đạn, khiến chúng hoảng hốt, tiến thối lưỡng nan, đành nằm chịu trận, không dám đứng dậy hay chạy đi đâu cả. Tiếp theo, trực thăng võ trang do Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT gửi đến tiếp ứng. Bị bốn mặt giáp công, toàn bộ lực lượng VC đã bị tiêu diệt.
Trước đó, khoảng 7 giờ 30 sáng, Ðại tá Lưu Kim Cương đến JDOC thăm hỏi tình hình và hỏi Trung tá Chiêu xem ông có thể ra mặt trận được không. Trung tá Chiêu trả lời mục tiêu thanh toán gần xong rồi, nếu ông có ra thì cũng chỉ quan sát thôi, để cho lực lượng phòng thủ và thiết giáp giải quyết mục tiêu cũng đủ rồi. Vì thế Ðại tá Cương chỉ ra đứng trên đài quan sát gần cổng Phi Long đặt ống nhòm quan sát.
Nhưng khi Trung úy Hạnh, chỉ huy lực Phòng vệ được lệnh JDOC cho xung phong thu dọn chiến trường, khi chạy ngang đài quan sát thấy Ðại tá Cương, một binh sĩ Phòng vệ đã la lớn 'Xung phong Ðại tá!'. Anh ta lập lại đến đôi ba lần. Tức thời Ðại tá Cương leo xuống đất. Rồi không biết vì muốn hòa mình, muốn làm gương cho binh sĩ, hoặc thấy trận chiến đã gần chấm dứt, ông hiên ngang chạy trước tiên, tay cầm súng lục bắn về phía nghĩa trang!
Không may, có một tên VC thủ súng B40 vẫn còn sống. Y liền bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên cạnh ông.
Trận đánh này, lực lượng ta chiến thắng một cách dễ dàng nhưng Ðại tá Tư Lệnh KÐ33CT lại hy sinh. Toàn thể quân nhân các cấp trong Yếu khu TSN vô cùng đau lòng, thương tiếc vị Chỉ huy trưởng anh hùng. Cố Ðại tá Lưu Kim Cương được vinh thăng Chuẩn tướng.
Ðến nay dù đã 35 năm trôi qua, mỗi khi nghe lại bản Cho một người nằm xuống, mọi người vẫn còn bùi ngùi thương tiếc...
Sau khi Chuẩn tướng Lưu Kim Cương qua đời, Trung tá Phùng Văn Chiêu trao quyền Liên đoàn trưởng 33 Phòng thủ cho Trung tá Lê Văn Triệu, còn ông thay thế Chuẩn tướng Cương trong 2 chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN và Khu quân sự TSN.
Ðầu năm 1970, khi Trung tá Chiêu được lệnh đi nhận chức Không đoàn trưởng Yểm cứ Biên Hòa, hai chức vụ nói trên được trao lại cho Ðại tá Phan Phụng Tiên.
NHNG UẨN KHÚC...
Theo lời Ðại tá Phùng Văn Chiêu, sau này trong dư luận Không Quân không hiểu có người cố tình xuyên tạc hay vì một nguyên nhân nào khác, đã chỉ trích rằng: tại sao ngày đó Trung tá Chiêu không ra trận mà lại để cho Ðại tá Cương ra để rồi bị tử thương!
Ðại tá Chiêu cho biết ông rất buồn trước dư luận này, nhưng trong suốt 35 năm qua, ông im lặng để mọi người muốn hiểu sao cũng được. Ðiều quan trọng đối với ông, chỉ cần vong hồn cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương biết là đủ rồi.
Sau đó ít lâu, trong lễ tiễn đưa linh cữu cố Ðại tá Phó Quốc Trụ tại sân cờ BCH/TÐ2CV (Ðại tá Trụ tử thương vì bị trực thăng Mỹ bắn lầm tại Chợ Lớn), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (Phó tổng thống) đã nói với Trung tá Chiêu rằng cấp chỉ huy KQ chẳng còn bao nhiêu, đừng xung phong nữa, để cho các sĩ quan dưới quyền đảm trách, khi nào cần thiết lắm thì cấp chỉ huy mới phải ra tuyến đầu!
Lời khuyên chân tình của một cấp lãnh đạo như Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khiến ông Chiêu được an ủi rất nhiều trước những lời chỉ trích trong dư luận...
Ngoài ra còn một việc mà cho tới nay, Ðại tá Chiêu vẫn thắc mắc và không thể quên, là trong cuộc tấn công đợt 1 của VC, ngoài các sĩ quan có trách nhiệm phòng thủ, có một sĩ quan bên Liên Ðoàn 33 Kỹ Thuật là Thiếu tá Nguyễn Dương, trong suốt thời gian trận chiến diễn ra ở TSN (1 tuần lễ) đã luôn luôn hiện diện, hướng dẫn cho binh sĩ dưới quyền kỹ thuật tác chiến, phân công, đôn đốc trong việc bảo vệ các ụ C-47 cũng như đáp ứng nhu cầu hành quân cấp bách.
Nếu ngày đó TÐ267 của VC vượt qua được tuyến phòng thủ B, thì chỉ còn 50 m nữa là tới các ụ C-47 và khu kỹ thuật, chắc chắn Thiếu tá Nguyễn Dương và anh em binh sĩ kỹ thuật sẽ bị chúng tiêu diệt. Sau đó, Ðại tá Lưu Kim Cương đã đề nghị thăng cấp Trung tá đặc cách mặt trận cho Thiếu tá Nguyễn Dương. Nhưng rồi trong số những vị Thiếu tá tiến ra trước mặt Thiếu tướng Tư lệnh KQ Trần Văn Minh để được gắn cấp bậc Trung tá nhờ công trạng trong Tết Mậu Thân đã không hề có Thiếu tá Nguyễn Dương mà có vài sĩ quan khác không thuộc KÐ33CT, cũng không có công trạng, nhưng lại được thăng cấp.
Chuyện xảy ra đã 35 năm, Ðại tá Phùng Văn Chiêu không bao giờ muốn nhắc lại, nhưng vì có lời yêu cầu của Ban Thực Hiện Quân Sử Không Quân , cũng là Ban Biên Tập đặc san Lý Tưởng - Úc Châu, ông mới kể lại đầy đủ - chuyện vui cũng như chuyện buồn.
Dĩ nhiên, sau 35 năm, ký ức của một người đã ở vào tuổi 'cổ lai hi' có thể không được đầy đủ và chính xác 100%. Vì thế, người viết xin chuyển đạt lời tâm tình của Ðại tá: nếu có những thiếu sót, hoặc vô tình làm buồn lòng một vài cá nhân trong quân chủng, ông chân thành cầu mong một sự thông cảm, và miễn chấp.
*Sưu tầm
Post a Comment