Nội soi phế quản
@emedicinehealth.com
1nguoiviet chuyễn ngữ
Giới thiệu nội soi phế quản
Nội soi phế quản để kiểm tra những bất thường bên trong đường hô hấp chẳng hạn như dị vật, chảy máu, một khối u, hoặc viêm. Có thề sử dụng ống soi phế quản cứng hoặc soi phế quản mềm.
Một ngưới Đức, Gustav Killian, thực hiện nội soi phế quản lần đầu tiên vào năm 1897. Từ đó cho đến những năm 1970, các bác sĩ thường đánh giá đường hô hấp bằng cách sử dụng ống soi phế quản cứng .
Trong những năm 1970, Ikeda giới thiệu ống soi phế quản mềm, tạo nhiều thuận lợi cho phương pháp này. Kể từ đó, soi phế quản đã trở thành một chẩn đoán và điều trị ngày càng quan trọng để quản lý các bệnh lồng ngực. Có lẽ bây giờ đó là thủ thuật xâm lấn phổ biến nhất trong nghiên cứu và chăm sóc điều trị bệnh phổi. Các bác sĩ thường sử dụng trong các cách sau:
Để xem những bất thường của đường hô hấp
Để lấy mẫu bất thường
Để đánh giá chảy máu trong phổi, ung thư phổi , ho mãn tính, hoặc xẹp phổi
Để loại bỏ các dị vật trong đường thở
Để mở thông đoạn tắc nghẽn
Ống soi phế quản cứng:
là một ống thẳng , rỗng, và bằng kim loại. ngày nay ít sử dụng , nhưng nó vẫn là sự lựa chọn để loại bỏ dị vật và một số phương pháp điều trị khác. Soi phế quản cứng cũng trở nên hữu ích khi quan sát. vùng đang chảy máu
Ống soi phế quản mềm:
là một ống nhỏ dài truyền tải hình ảnh rõ ràng khi ống uốn cong. cho phép tiếp cận những điểm xa nhất . Có thể được thực hiện dễ dàng và an toàn bằng gây tê tại chỗ.
Rủi ro
Soi phế quản cứng có thể làm xước hoặc rách đường hô hấp và làm tổn thương dây thanh âm, nguy cơ soi phế quản cứng là hạn chế. Các điều kiện sử dụng đe dọa các vấn đề về tim hoặc oxy thấp nghiêm trọng.
Các biến chứng từ soi phế quản mềm vẫn rất thấp.
Biến chứng thường gặp bao gồm cả các vấn đề tim mạch hoặc chảy máu quá nhiều sau sinh thiết.
Sinh thiết phổi cũng có thể gây rò rỉ tràn khí màng phổi . Tràn khí màng phổi xảy ra ở ít hơn 1% các trường hợp sinh thiết phổi.
Chuẩn bị soi phế quản
Trước khi tiến hành, cần thảo luận với với bện nhân những điều sau đây:
Tiến trình của một nội soi phế quản
Những vấn đề mà Bác sĩ hy vọng sẽ đạt được
Những rủi ro của tiến trình
Biến chứng có thể gặp phải
Thủ tục trước tiến trình::
- hoàn tất hồ sơ bệnh án
- Kiểm tra phổi và tim
- Chụp X-quang ngực
- xét nghiệm máu thích hợp khi có một nguy cơ chảy máu cao
Phương pháp tiến hành
Sử dụng thuốc chống lo âu (antianxiet) và antisecretory (để làm khô miệng và niêm mạc), thường atropine (Atropair, I-Tropine) và morphine (Duramorph, Oramorph, Roxanol), nửa giờ trước khi tiến hành.
Trong tiến trình, có thể cung cấp thêm midazolam để an thần, mặc dù bệnh nhân vẫn có ý thức. Lidocain cũng có thể được sử dụng để gây tê đường hô hấp trên .theo dõi các thông số tim mạch trong suốt quá trình thực hiện
Đưa soi phế quản mềm thông qua mũi hoặc miệng. Bệnh nhân có thể được ngồi hoặc nằm.Kiểm tra dây thanh âm , tiếp tục đến khí quản và từ trên xuống, kiểm tra mỗi khu vực khi ống soi phế quản qua .Nếu phát hiện sự bất thường, có thể lấy mẫu , bằng cách sử dụng một bàn chải, kim, hoặc kẹp.Cũng có thể lấy mẫu ở các phế nang trong phổi .Có thể lấy một mẫu mô phổi (transbronchial sinh thiết) thường được hổ trợ bởi C-arm
Sau tiến trình
Hầu hết người lớn chịu đựng tốt tiến trình soi phế quản, Tuy nhiền cần yêu cầu bệnh nhân một thời gian ngắn để theo dỏi.
Y tá sẽ theo dõi sát trong 2-4 giờ sau tiến trình.
Hầu hết các biến chứng xảy ra sớm và rõ ràng ở thời gian của tiến trình.
Bệnh nhân sẽ được theo dõi cho đến khi tác dụng của thuốc an thần hết và nôn có phản xạ trở lại.
Nếu có một sinh thiết phổi , chụp X-quang kiểm tra để loại trừ bất kỳ rò rỉ khí trong phổi sau tiến trình.
Bệnh nhân sẽ được nhập viện nếu bạn thấy bất cứ chảy máu, rò rỉ khí, hoặc suy hô hấp.
1nguoiviet chuyễn ngữ
Giới thiệu nội soi phế quản
Nội soi phế quản để kiểm tra những bất thường bên trong đường hô hấp chẳng hạn như dị vật, chảy máu, một khối u, hoặc viêm. Có thề sử dụng ống soi phế quản cứng hoặc soi phế quản mềm.
Một ngưới Đức, Gustav Killian, thực hiện nội soi phế quản lần đầu tiên vào năm 1897. Từ đó cho đến những năm 1970, các bác sĩ thường đánh giá đường hô hấp bằng cách sử dụng ống soi phế quản cứng .
Trong những năm 1970, Ikeda giới thiệu ống soi phế quản mềm, tạo nhiều thuận lợi cho phương pháp này. Kể từ đó, soi phế quản đã trở thành một chẩn đoán và điều trị ngày càng quan trọng để quản lý các bệnh lồng ngực. Có lẽ bây giờ đó là thủ thuật xâm lấn phổ biến nhất trong nghiên cứu và chăm sóc điều trị bệnh phổi. Các bác sĩ thường sử dụng trong các cách sau:
Để xem những bất thường của đường hô hấp
Để lấy mẫu bất thường
Để đánh giá chảy máu trong phổi, ung thư phổi , ho mãn tính, hoặc xẹp phổi
Để loại bỏ các dị vật trong đường thở
Để mở thông đoạn tắc nghẽn
Ống soi phế quản cứng:
là một ống thẳng , rỗng, và bằng kim loại. ngày nay ít sử dụng , nhưng nó vẫn là sự lựa chọn để loại bỏ dị vật và một số phương pháp điều trị khác. Soi phế quản cứng cũng trở nên hữu ích khi quan sát. vùng đang chảy máu
Ống soi phế quản mềm:
là một ống nhỏ dài truyền tải hình ảnh rõ ràng khi ống uốn cong. cho phép tiếp cận những điểm xa nhất . Có thể được thực hiện dễ dàng và an toàn bằng gây tê tại chỗ.
Rủi ro
Soi phế quản cứng có thể làm xước hoặc rách đường hô hấp và làm tổn thương dây thanh âm, nguy cơ soi phế quản cứng là hạn chế. Các điều kiện sử dụng đe dọa các vấn đề về tim hoặc oxy thấp nghiêm trọng.
Các biến chứng từ soi phế quản mềm vẫn rất thấp.
Biến chứng thường gặp bao gồm cả các vấn đề tim mạch hoặc chảy máu quá nhiều sau sinh thiết.
Sinh thiết phổi cũng có thể gây rò rỉ tràn khí màng phổi . Tràn khí màng phổi xảy ra ở ít hơn 1% các trường hợp sinh thiết phổi.
Chuẩn bị soi phế quản
Trước khi tiến hành, cần thảo luận với với bện nhân những điều sau đây:
Tiến trình của một nội soi phế quản
Những vấn đề mà Bác sĩ hy vọng sẽ đạt được
Những rủi ro của tiến trình
Biến chứng có thể gặp phải
Thủ tục trước tiến trình::
- hoàn tất hồ sơ bệnh án
- Kiểm tra phổi và tim
- Chụp X-quang ngực
- xét nghiệm máu thích hợp khi có một nguy cơ chảy máu cao
Phương pháp tiến hành
Sử dụng thuốc chống lo âu (antianxiet) và antisecretory (để làm khô miệng và niêm mạc), thường atropine (Atropair, I-Tropine) và morphine (Duramorph, Oramorph, Roxanol), nửa giờ trước khi tiến hành.
Trong tiến trình, có thể cung cấp thêm midazolam để an thần, mặc dù bệnh nhân vẫn có ý thức. Lidocain cũng có thể được sử dụng để gây tê đường hô hấp trên .theo dõi các thông số tim mạch trong suốt quá trình thực hiện
Đưa soi phế quản mềm thông qua mũi hoặc miệng. Bệnh nhân có thể được ngồi hoặc nằm.Kiểm tra dây thanh âm , tiếp tục đến khí quản và từ trên xuống, kiểm tra mỗi khu vực khi ống soi phế quản qua .Nếu phát hiện sự bất thường, có thể lấy mẫu , bằng cách sử dụng một bàn chải, kim, hoặc kẹp.Cũng có thể lấy mẫu ở các phế nang trong phổi .Có thể lấy một mẫu mô phổi (transbronchial sinh thiết) thường được hổ trợ bởi C-arm
Sau tiến trình
Hầu hết người lớn chịu đựng tốt tiến trình soi phế quản, Tuy nhiền cần yêu cầu bệnh nhân một thời gian ngắn để theo dỏi.
Y tá sẽ theo dõi sát trong 2-4 giờ sau tiến trình.
Hầu hết các biến chứng xảy ra sớm và rõ ràng ở thời gian của tiến trình.
Bệnh nhân sẽ được theo dõi cho đến khi tác dụng của thuốc an thần hết và nôn có phản xạ trở lại.
Nếu có một sinh thiết phổi , chụp X-quang kiểm tra để loại trừ bất kỳ rò rỉ khí trong phổi sau tiến trình.
Bệnh nhân sẽ được nhập viện nếu bạn thấy bất cứ chảy máu, rò rỉ khí, hoặc suy hô hấp.
Post a Comment