Hiến Pháp Vương Quốc Nhật Bản 1946
HIẾN PHÁP NHẬT BẢN 1946
(Ban hành ngày 3 tháng 11 năm 1946, có hiệu lực ngày 3 tháng 5 năm 1947)
Chúng ta, những người dân Nhật Bản, những đại biểu Quốc hội, quyết tâm bảo vệ thành quả hợp tác hoà bình giữa các quốc gia, nền tự do của đất nước không chỉ cho chính chúng ta mà còn cho cả những thế hệ sau này, kiên quyết không tham gia chiến tranh như các Chính phủ trước, khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân những người soạn thảo bản Hiến pháp này. Chính phủ là nơi nhân dân đặt niềm tin thiêng liêng, là nơi nhân dân trao quyền lực của mình, Chính phủ thay mặt cho nhân dân và hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Đó là nguyên tắc cơ bản, là nền tảng của bản Hiến pháp này. Nhân dân sẽ không chấp nhận và sẽ huỷ bỏ tất cả những bản Hiến pháp, đạo luật, sắc lệnh cũng như những công báo không phù hợp với bản Hiến pháp dưới đây.
Nhân dân Nhật Bản mong muốn sự hoà bình cũng như hiểu rằng những lý tưởng về mối tương quan giữa con người, quyết tâm bảo vệ an ninh và sự sinh tồn của đất nước, tin tưởng vào công lý cũng như những dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Chúng ta mong muốn có một vị trí nhất định trên trường quốc tế, đấu tranh cho hoà bình, chống lại sự chuyên chế, nô dịch, áp bức và bảo thủ, lạc hậu ở khắp mọi nơi trên trái đất. Chúng ta công nhận quyền được sống trong tự do, không phải chịu đựng sự sợ hãi, thiếu thốn của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Chúng ta hiểu rằng không một dân tộc nào chỉ phải chịu trách nhiệm riêng trước dân tộc mình mà những luân thường đạo lý mang tính cơ bản, cốt là đều phải được các quốc gia tôn trọng nếu họ muốn bảo vệ chủ quyền và chứng minh chủ quyền của dân tộc mình với các quốc gia khác.
Chúng ta, những người dân Nhật Bản, xin cam đoan trước danh dự Tổ quốc sẽ bằng mọi biện pháp có thể để thực hiện tất cả những mục tiêu và lí tưởng cao cả nêu trên.
CHƯƠNG I
HOÀNG ĐẾ
Điều 1
Hoàng đế là biểu tượng của quốc gia và cộng đồng dân tộc, vị trí của Hoàng đế xuất phát từ ý chí nguyện vọng của người dân một nước có chủ quyền.
Điều 2
Ngai vàng được kế vị và sự kế vị đó phải phù hợp với Luật Hoàng gia do Quốc hội thông qua.
Điều 3
Mọi hoạt động của Hoàng đế liên quan đến quốc gia phải tham khảo ý kiến và được Nội các thông qua. Việc này thuộc trách nhiệm của Nội các.
Điều 4
Hoàng đế chỉ có trách nhiệm đại diện quốc gia như đã ghi trong Hiến pháp, Hoàng đế không có quyền lực trong chính phủ.
Hoàng đế có thể uỷ quyền đại diện quốc gia cho người khác nhưng phải phù hợp với các điều khoản trong Hiến pháp.
Điều 5
Khi chế độ nhiếp chính được thành lập theo quy định của Luật hoàng gia, quan nhiếp chính sẽ nhân danh Hoàng đế để thực hiện quyền đại diện quốc gia. Trong trường hợp này, đoạn 1 của điều khoản trên sẽ có hiệu lực.
Điều 6
Hoàng đế bổ nhiệm Thủ tướng theo chỉ định của Quốc hội đồng thời bổ nhiệm Thẩm phán đứng đầu Toà án tối cao theo đề nghị của Nội các.
Điều 7
Dưới sự đồng ý của Nội các, Hoàng đế thay mặt nhân dân thực hiện các quyền sau:
- Ban hành các tu chính án Hiến pháp, đạo luật, sắc lệnh của Nội các và hiệp ước;
- Triệu tập Quốc hội;
- Giải tán Hạ nghị viện;
- Tuyên bố kết quả cuộc tổng tuyển cử Quốc hội;
- Bổ nhiệm hay bãi miễn các Bộ trưởng, các viên chức theo pháp luật hiện hành, có toàn quyền trong việc uỷ nhiệm thư với đại sứ, bộ trưởng;
- Thực hiện ân xá, giảm án, hoãn thi hành án, khôi phục quyền công dân;
- Trao huân chương;
- Xác định việc Quốc hội chuẩn y các hiệp định quốc tế, các văn bản ngoại giao theo pháp luật hiện hành;
- Tiếp đón các Bộ trưởng và Đại sứ quốc tế;
- Đại diện quốc gia trong các buổi lễ long trọng.
Điều 8
Không có sự cho phép của Quốc hội, không ai được tặng tài sản cho Hoàng gia, Hoàng gia cũng không được nhận hay cho tặng phẩm nếu không có sự chấp thuận kể trên.
CHƯƠNG II
PHỦ NHẬN CHIẾN TRANH
Điều 9
Mong muốn một nền hoà bình dựa trên công lý và trật tự, dân tộc Nhật Bản phản đối chiến tranh cũng như sự đe doạ hay áp dụng sức mạnh để giải quyết những tranh chấp quốc tế vì chiến tranh không phải là quyền tối thượng của quốc gia.
Để đạt được những mục tiêu đó, Nhật Bản không thành lập các lực lượng lục quân, hải quân, không quân hay các tiềm năng quân sự khác. Quyền tham chiến không được công nhận.
CHƯƠNG III
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN
Điều 10
Luật pháp quy định các điều kiện về quốc tịch.
Điều 11
Mọi người đều có quyền cơ bản. Những quyền đó là vĩnh viễn, bất khả xâm phạm dành cho công dân Nhật không chỉ ở thế hệ này mà còn ở các thế hệ sau và được ghi trong Hiến pháp.
Điều 12
Quyền tự do và những quyền được ghi trong Hiến pháp phải được mọi người bảo vệ, không lạm dụng vì mục đích riêng và phải được duy trì vì sự thịnh vượng chung của đất nước.
Điều 13
Tất cả mọi người đều được thừa nhận là những cá nhân riêng biệt. Quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của công dân phải được đặc biệt quan tâm trong hoạt động lập pháp cũng như trong hoạt động khác của chính phủ nếu nó không đi ngược lại với quyền lợi chung của cộng đồng.
Điều 14
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Không có sự phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, nam nữ, tình trạng xã hội hay lai lịch bản thân trong tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế.
Không công nhận giai cấp quý tộc hay chức tước quý tộc. Khi tặng chức tước, huy chương cho một cá nhân trong hiện tại hay tương lai, Chính phủ không công nhận đặc ân nào có giá trị quá cuộc đời của cá nhân đó.
Điều 15
Công dân có quyền bất khả xâm phạm trong việc lựa chọn hay bãi nhiệm các viên chức.
Các viên chức phục vụ cả cộng đồng mà không phải một nhóm người nào trong cộng đồng.
Phổ thông đầu phiếu được công nhận cho công dân đến tuổi đi bầu cử để lựa chọn các vị đại biểu nhân dân.
Mọi cuộc bầu cử đều theo nguyên tắc bỏ phiếu kín. Cử tri không cần tường trình sự bỏ phiếu của mình với bất kỳ ai.
Điều 16
Mọi công dân đều có quyền khiếu nại để đòi bồi thường thiệt hại, cắt chức các công chức, kiến nghị áp dụng, huỷ bỏ, sửa chữa đạo luật, quy tắc hành chính hay khiếu nại trong các lĩnh vực khác; không người nào bị phân biệt đối xử vì ủng hộ các kiến nghị này.
Điều 17
Mọi công dân khi bị thiệt hại vì bất kỳ hành vi bất hợp pháp của công chức đều có quyền xin Chính phủ bồi thường theo pháp luật.
Điều 18
Không ai bị lệ thuộc dưới bất cứ hình thức nào. Sự nô dịch, trừ trong trường hợp là hình phạt của trọng tội, bị ngăn cấm.
Điều 19
Công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng.
Điều 20
Mọi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng. Không một tổ chức tôn giáo nào có thể nhận được đặc ân của Chính phủ hay được sử dụng quyền chính trị.
Không ai bị bắt buộc tham gia các hoạt động, lễ nghi của các tổ chức tôn giáo.
Chính phủ và các cơ quan Nhà nước không theo nền giáo dục mang tính tôn giáo và cũng không có các hành vi tôn giáo.
Điều 21
Công dân có quyền tụ họp, ngôn luận, báo chí và mọi hình thức biểu đạt ý kiến đều được chấp nhận.
Không có sự kiểm duyệt và sự tối mật trong các cách thức truyền đạt thông tin được bảo đảm.
Điều 22
Mọi công dân đều có quyền lựa chọn và thay đổi chỗ ở, nghề nghiệp nếu điều đó không ảnh hưởng đến quyền lợi chung của cộng đồng.
Công dân có quyền xuất ngoại và từ bỏ quốc tịch.
Điều 23
Chính phủ bảo đảm quyền tự do học thuật của công dân.
Điều 24
Hôn nhân phải có sự tán thành của cả hai vợ chồng, phải tồn tại dựa trên sự hợp tác, bình đẳng về quyền lợi giữa hai người. Dựa trên tinh thần tôn trọng phẩm giá cá nhân, bình đẳng nam nữ, các đạo luật ban hành quy định về việc lựa chọn vợ chồng, quyền tư hữu, di sản, lựa chọn nơi ở, li dị và mọi vấn đề khác về hôn nhân, gia đình.
Điều 25
Mọi công dân đều có quyền hưởng mức sống tối thiểu lành mạnh và có giáo dục.
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, Chính phủ đều cố gắng khuyến khích, nâng cao hệ thống an ninh xã hội và y tế công cộng.
Điều 26
Mọi công dân đều có quyền hưởng một nền giáo dục bình đẳng phù hợp với khả năng và đúng theo quy định của luật pháp.
Tất cả mọi người đều phải bảo đảm cho con trai, con gái họ được tiếp thu giáo dục phổ thông theo quy định của luật pháp. Giáo dục bắt buộc đó được miễn phí.
Điều 27
Mọi người đều có quyền và có nghĩa vụ làm việc.
Các tiêu chuẩn về lương bổng, giờ làm, thời gian nghỉ ngơi và nhiều điều kiện làm việc khác đều được pháp luật quy định.
Trong mọi trường hợp, bóc lột trẻ em là phạm pháp.
Điều 28
Người lao động có quyền tổ chức để tiến hành thương lượng và hành động tập thể.
Điều 29
Quyền tư hữu là quyền bất khả xâm phạm.
Quyền tư hữu được ghi trong luật pháp và phù hợp với quyền lợi chung của cộng đồng.
Tài sản cá nhân chỉ được trưng dụng vì mục đích công cộng khi có bồi thường tương ứng.
Điều 30
Mọi công dân đều có nghĩa vụ đóng thuế theo Luật pháp ban hành.
Điều 31
Không ai bị tước bỏ quyền sống, quyền tự do hay phải chịu các hình phạt hình sự trừ khi bị xét xử theo thủ tục tố tụng được luật pháp quy định.
Điều 32
Không ai bị tước quyền tiếp cận các tòa án.
Điều 33
Không ai bị bắt bớ mà không có sự cho phép của tòa án trong đó chỉ rõ hành vi phạm tội trừ trường hợp đương sự bị bắt quả tang.
Điều 34
Không ai bị giam giữ nếu không được thông báo tội trạng và nếu không có luật sư bênh vực, không có chứng cớ xác đáng. Nếu có đơn khiếu nại, lí do đó phải được công bố ngay tại phiên toà công khai trước bị cáo và luật sư.
Điều 35
Nếu không có sự cho phép của toà án trình bày lí do, thông báo về chỗ khám xét, đồ vật bị tịch thu thì mọi thư từ, đồ vật, nhà ở đều được pháp luật bảo vệ theo Điều 33.
Mọi lệnh khám xét, tịch thu đều phải có sự cho phép của Thẩm phán.
Điều 36
Sự tra tấn hay việc thực hiện các hình phạt tàn bạo bị tuyệt đối cấm.
Điều 37
Trong mọi trường hợp, đối với các trọng tội, bị cáo đều được xét xử nhanh chóng, công khai bởi một Hội đồng xét xử công minh.
Bị cáo có quyền đối chất với các nhân chứng, có quyền yêu cầu nhân chứng ra trước toà để bênh vực mình, mọi chi phí và sự đi lại hầu toà của nhân chứng do quốc gia đài thọ.
Bị cáo được luật sư bào chữa. Nếu trong các quy trình thủ tục, bị cáo không có tiền thuê luật sư thì toà án sẽ chỉ định một luật sư để bào chữa cho bị cáo.
Điều 38
Không ai bị bắt buộc khai trái sự thật.
Những lời thú tội vì ép buộc, tra tấn, đe doạ hay do thời gian giam cầm lâu không được coi là bằng chứng.
Không ai bị kết án hay trừng phạt nếu chứng cứ buộc tội chỉ dựa trên lời thừa nhận của bản thân bị cáo.
Điều 39
Không ai phải chịu trách nhiệm về hình phạt đối với một hành vi được coi là hợp pháp vào thời điểm thực hiện hoặc hay đã được xử trắng án hoặc được thực hiện trong trường hợp bị đặt vào tình trạng nguy hiểm.
Điều 40
Người được xét xử trắng án sau khi bị bắt bớ hay giam cầm có thể kiện đòi Chính phủ bồi thường theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG IV
QUỐC HỘI
Điều 41
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước và cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
Điều 42
Quốc hội có hai Viện: Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện.
Điều 43
Cả hai Viện đều bao gồm các thành viên do nhân dân bầu ra. Số thành viên của mỗi Viện được quy định bởi pháp luật.
Điều 44
Điều kiện bầu cử và ứng cử được ghi trong pháp luật, không có sự phân biệt về chủng tộc, tín ngưỡng, nam nữ, điều kiện xã hội, lý lịch gia đình, học vấn, tài sản và thu nhập.
Điều 45
Nhiệm kỳ đại biểu của Hạ Nghị Viện là bốn năm. Nhưng nhiệm kỳ sẽ chấm dứt trước thời hạn nếu Hạ Nghị Viện bị giải tán.
Điều 46
Nhiệm kỳ Thượng nghị sĩ là 6 năm, cứ 3 năm lại bầu lại một nửa tổng số thành viên.
Điều 47
Khu vực tuyển cử, thủ tục bỏ phiếu và các vấn đề liên quan tới bầu cử do pháp luật ấn định.
Điều 48
Không ai được kiêm nhiệm chức vụ đại biểu ở cả hai Viện.
Điều 49
Đại biểu ở cả hai Viện được hưởng lương bổng theo Ngân sách Quốc gia và do pháp luật quy định.
Điều 50
Trừ trường hợp được pháp luật quy định, đại biểu của cả hai Viện không bị bắt trong khoá họp của Quốc hội, nếu đại biểu nào bị giam cầm trước khi khai mạc khoá họp thì sẽ được phóng thích để dự khoá họp theo yêu cầu của Quốc hội.
Điều 51
Đại biểu hai Viện không bị truy tố khi ra ngoài Quốc hội vì những bài diễn thuyết, cách thảo luận hay bỏ phiếu tại quốc hội.
Điều 52
Quốc hội được triệu tập thường lệ mỗi năm một lần.
Điều 53
Nội các có quyền triệu tập phiên họp bất thường của Quốc hội. Khi có yêu cầu của từ một phần tư tổng số đại biểu của mỗi Viện, Nội các phải triệu tập phiên họp bất thường của Quốc hội.
Điều 54
Khi Hạ Nghị Viện bị giải tán, phải tổ chức tổng tuyển cử 40 ngày sau thời hạn giải tán và Quốc hội phải họp sau 30 ngày bầu cử.
Trong trường hợp Hạ Nghị Viện bị giải tán, Thượng Nghị Viện cũng không họp. Nhưng nếu trong trường hợp đất nước lâm nguy, Nội các có thể triệu tập phiên họp bất thường của Thượng Nghị Viện.
Tuy nhiên biện pháp trên chỉ có tính tạm thời và sẽ bị huỷ bỏ nếu Hạ Nghị Viện không chấp thuận trong vòng 10 ngày sau khi khai mạc khóa họp của Quốc hội.
Điều 55
Mỗi Viện đều có tham quyền riêng trong việc xét xử những vụ kiện liên quan đến tư cách đại biểu của Viện mình. Tuy nhiên, việc quyết định cách chức một đại biểu phải thông qua một nghị quyết với sự nhất trí của từ 2/3 tổng số nghị sĩ có mặt.
Điều 56
Khoá họp của mỗi Viện chỉ được tiến hành nếu có từ 1/3 tổng số đại biểu có mặt.
Tất cả các vấn đề tại mỗi Viện sẽ được biểu quyết thông qua nếu đa số đại biểu có mặt tán thành. Trong trường hợp số phiếu bằng nhau, Chủ tịch phiên họp sẽ quyết định.
Điều 57
Các cuộc thảo luận tại mỗi Viện phải được tiến hành một cách công khai. Quốc hội sẽ tổ chức phiên họp kín nếu đa số 2/3 đại biểu có mặt biểu quyết. Mọi tiến trình công việc của mỗi Viện phải được ghi thành. Biên bản này được công bố và phân phát cho nhiều người trừ những biên bản trong các cuộc họp kín.
Trong trường hợp có yêu cầu của từ 1/5 tổng số đại biểu có mặt, biên bản phải ghi chép kết quả cuộc bỏ phiếu của các đại biểu trong phiên họp.
Điều 58
Mỗi Viện tự lựa chọn Chủ tịch cũng như các viên chức cấp cao của mình.
Mỗi Viện phải tự thiết lập các nguyên tắc, luật lệ liên quan đến phiên họp và có hình phạt thích đáng cho những người làm trái quy định.
Tuy nhiên, để trục xuất một đại biểu ra khỏi Viện, cần phải thông qua một nghị quyết với sự nhất trí của từ 2/3 tổng số đại biểu có mặt.
Điều 59
Dự thảo luật sẽ trở thành luật nếu được cả hai Viện thông qua trừ những trường hợp đặc biệt được ghi trong Hiến pháp.
Nếu Thượng Nghị Viện không đồng ý với một dự thảo luật mà Hạ Nghị Viện đã thông qua thì văn kiện đó sẽ được thành đạo luật nếu Hạ nghị viện biểu quyết lần thứ hai với đa số 2/3 đại biểu có mặt thông qua.
Điều khoản trên không loại trừ trường hợp Hạ nghị viện có thể triệu tập một Uỷ ban với đại diện của cả hai Viện.
Nếu Thượng nghị viện không biểu quyết trong 60 ngày kể từ ngày nhận dự luật do Hạ nghị viện thông qua (trừ trường hợp Thượng nghị viện ngừng họp), Hạ nghị viện sẽ coi sự không biểu quyết này là sự phủ nhận.
Điều 60
Vấn đề về ngân sách phải được Hạ nghị viện biểu quyết trước.
Khi thảo luận về vấn đề này, nếu Thượng nghị viện không đồng ý với Hạ nghị viện, và nếu Uỷ ban đại diện của cả hai Viện cũng không có được sự nhất trí hay Thượng nghị viện không thể đưa ra quyết định trong vòng 30 ngày sau khi Hạ nghị viện thông qua thì quyết định của Hạ nghị viện sẽ là quyết định cuối cùng của Quốc hội.
Điều 61
Đoạn 2 của điều trên cũng được áp dụng trong trường hợp Quốc hội phê chuẩn Hiệp ước.
Điều 62
Mỗi Viện có thể mở cuộc điều tra về hoạt động của Chính phủ, hỏi cung nhân chứng và kiểm tra các tài liệu.
Điều 63
Cho dù có phải là đại biểu của mỗi Viện hay không, Thủ tướng và các Bộ trưởng có quyền tới các Viện bất cứ lúc nào để phát biểu ý kiến về dự luật. Họ phải có mặt để trả lời và giải thích các vấn đề khi cần thiết.
Điều 64
Quốc hội có quyền lựa chọn các đại biểu của cả hai Viện để thiết lập một Toà án xét xử các vị Thẩm phán. Việc này được quy định trong một đạo luật.
CHƯƠNG V
NỘI CÁC
Điều 65
Nội các là cơ quan nắm giữ quyền hành pháp.
Điều 66
Nội các bao gồm Thủ tướng là người đứng đầu Nội các và các Bộ trưởng theo quy định của pháp luật.
Thủ tướng và các Bộ trưởng phải là công chức dân sự.
Nội các phải chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội trong quá trình thực thi quyền hành pháp.
Điều 67
Thủ tướng được Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu của Quốc hội thông qua một nghị quyết của Quốc hội. Công việc này phải được ưu tiên so với các hoạt động khác của Quốc hội.
Nếu hai Viện không đạt được sự nhất trí và ủy ban chung của hai viện cũng không đạt được sự nhất trí chung hoặc Thượng nghị viện không chỉ định được thủ tướng trong vòng 10 ngày sau khi Hạ nghị viện biểu quyết thông qua nghị quyết bầu Thủ tướng thì quyết định của Hạ nghị viện sẽ là quyết định cuối cùng của Quốc hội.
Điều 68
Thủ tướng có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm các Bộ trưởng. Đa số các Bộ trưởng phải là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng có quyền cách chức Bộ trưởng.
Điều 69
Nếu Hạ nghị viện thông qua nghị quyết bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc phủ quyết nghị quyết tín nhiệm, Nội các sẽ phải đệ đơn từ chức, trừ trường hợp Hạ nghị viện bị giải tán trong vòng 10 ngày.
Điều 70
Nội các phải từ chức khi vị trí của Thủ tướng bị khuyết hoặc phải từ chức vào thời điểm Quốc hội triệu tập phiên họp đầu tiên sau cuộc tổng tuyển cử Hạ nghị viện.
Điều 71
Trong trường hợp của cả hai điều khoản trên, Nội các vẫn có thể tiếp tục làm việc cho tới khi Thủ tướng mới được bầu ra.
Điều 72
Thủ tướng thay mặt Nội các trình Quốc hội các dự thảo luật, báo cáo về các vấn đề đối nội, đối ngoại lớn của đất nước và thực hiện quyền quản lý và kiểm soát các cơ quan hành chính khác.
Điều 73
Ngoài các chức năng hành chính thông thường khác, Nội các có các chức năng như sau:
- Thi hành pháp luật một cách trung thực, quản lí nhà nước;
- Quản lí các chính sách ngoại giao;
- Kí kết hiệp ước, nhưng phải có sự phê chuẩn của Quốc hội;
- Quản lí các dịch vụ công theo các tiêu chuẩn được pháp luật quy định;
- Dự toán ngân sách để đệ trình Quốc hội;
- Ban hành sắc lệnh để thi hành hiến pháp và đạo luật, tuy nhiên không thể quy định những quy tắc hình sự nếu không được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
- Quyết định ân xá, giảm tội, miễn tội, khôi phục quyền công dân.
Điều 74
Các đạo luật và sắc lệnh đều phải do các Bộ trưởng có thẩm quyền kí và xác nhận, đồng thời phải được Thủ tướng phê chuẩn.
Điều 75
Bộ trưởng đang trong nhiệm kỳ thì không thể bị truy tố nếu không có sự cho phép của Thủ tướng.
CHƯƠNG VI
TƯ PHÁP
Điều 76
Toàn bộ quyền tư pháp được trao cho Toà án tối cao và các toà án các cấp được thành lập theo quy định của pháp luật.
Không được thành lập bất kỳ một Toà án đặc biệt nào cũng như không một cơ quan Hành pháp được trao quyền tư pháp cuối cùng.
Các Thẩm phán xét xử một cách độc lập, theo lương tâm, Hiến pháp và luật pháp.
Điều 77
Toà án tối cao được trao quyền quy định các nguyên tắc về thủ tục và thực tiễn làm việc, các vấn đề liên quan đến luật sư, kỷ luật của toà án và các công việc hành chính của Tòa.
Các công tố viên phải tuân thủ các quyền quy định các vấn đề thủ tục làm việc nói trên của Toà án tối cao.
Toà án tối cao có thể uỷ quyền cho tòa án các cấp trong việc quy định những vấn đề về thủ tục làm việc.
Điều 78
Các Thẩm phán không bị cách chức ngoại trừ theo thủ tục đàn hạch hoặc bị Toà án tuyên bố không đủ năng lực cần thiết về trí tuệ và thể chất để thực hiện công việc. Không một cơ quan nào trong ngành Hành pháp có thể áp dụng biện pháp kỉ luật với Thẩm phán.
Điều 79
Toà án tối cao bao gồm một Chánh án và các Thẩm phán. Số lượng Thẩm phán do pháp luật quy định. Ngoài Chánh án, các vị Thẩm phán do Nội các chỉ định.
Việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án tối cao do toàn dân chuẩn y đồng thời tại cuộc tổng tuyển cử các Hạ nghị sĩ đầu tiên sau khi các thẩm phán được bổ nhiệm. Và cứ sau 10 năm, nhân dân lại chuẩn y việc bổ nhiệm trên tại cuộc tổng tuyển cử các Hạ nghị sĩ đầu tiên sau thời hạn 10 năm đó.
Trong các trường hợp trên, Thẩm phán sẽ bị bãi nhiệm nếu bị đa số cử tri bỏ phiếu nhất trí đề nghị bãi nhiệm.
Thủ tục xem xét lại này sẽ do pháp luật quy định.
Thẩm phán toà án tối cao phải về hưu nếu tới hạn tuổi quy định bởi pháp luật.
Mỗi thời kỳ nhất định, Thẩm phán sẽ được nhận một khoản phụ cấp xứng đáng và không bị cắt giảm trong suốt nhiệm kỳ.
Điều 80
Thẩm phán Toà án các cấp do Nội các bổ nhiệm theo danh sách đề cử của Toà án tối cao.
Các Thẩm phán có nhiệm kỳ 10 năm và có đặc quyền được bầu cử lại trừ trường hợp vị đó phải về hưu.
Các Thẩm phán tòa án các cấp cũng được hưởng một khoản phụ cấp xứng đáng và không bị cắt giảm trong suốt nhiệm kỳ.
Điều 81
Toà án tối cao là cấp xét xử cao nhất với thẩm quyền xác định tính hợp hiến của các đạo luật, sắc lệnh, quy tắc hoặc các hành vi công khác.
Điều 82
Các phiên tòa được xét xử công khai và các bản án phải được công bố. Nếu các thẩm phán thống nhất rằng việc xét xử công khai không có lợi cho trật tự công cộng hoặc ảnh hưởng tới đạo đức, phiên tòa sẽ được xét xử kín. Tuy nhiên, các phiên tòa về chính trị, báo chí, nhân quyền thuộc Chương I trong Hiến pháp phải được bảo đảm xét xử công khai.
CHƯƠNG VII
TÀI CHÍNH
Điều 83
Quyền quản lý tài chính quốc gia được thực hiện theo các quyết định của Quốc hội.
Điều 84
Việc thiết lập hay sửa đổi một loại thuế phải được đề cập trong một đạo luật hay được pháp luật công nhận.
Điều 85
Không một khoản tiền nào được chi cho dù Nhà nước có yêu cầu trừ khi được Quốc hội cho phép.
Điều 86
Nội các soạn thảo và đệ trình trước Quốc hội dự toán ngân sách quốc gia theo các năm tài chính.
Điều 87
Để bổ sung cho sự hao hụt ngân sách đối với các khoản chi không được xác định trước, một quỹ dự trữ được thành lập theo quyết định của Quốc hội để thực hiện các khoản chi thuộc trách nhiệm Nội các. Tuy nhiên, các khoản chi của Nội các phải được Quốc hội phê duyệt sau khi chi.
Điều 88
Tài sản của Hoàng gia là tài sản chung của cả quốc gia. Mọi khoản chi tiêu của Hoàng gia đều cần có sự phê chuẩn của Quốc hội.
Điều 89
Không một tài sản quốc gia hay ngân sách nào được dùng để thiết lập, duy trì hiệp hội tôn giáo, cơ quan từ thiện hay giáo dục công ích mà không được chính quyền quản lí.
Điều 90
Báo cáo tài chính cuối cùng về thu chi ngân sách quốc gia sẽ được kiểm toán hàng năm bởi một Ban kiểm toán và được Chính phủ đệ trình Quốc hội cùng với báo cáo kiểm toán ngay sau khi năm tài chính kết thúc.
Việc tổ chức cũng như thẩm quyền của Ban kiểm toán này được pháp luật quy định.
Điều 91
Theo những định kỳ nhất định hoặc ít nhất mỗi năm một lần, Nội các phải đệ trình trước Quốc hội và toàn dân báo cáo về tình trạng tài chính quốc gia.
CHƯƠNG VIII
QUYỂN TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG
Điều 92
Các quy tắc về tổ chức, điều hành bộ máy chính quyền địa phương được pháp luật quy định phù hợp với nguyên tắc tự trị địa phương.
Điều 93
Các địa phương sẽ tổ chức hội đồng nhân dân như một cơ quan để thảo luận, biểu quyết phù hợp với quy định của luật pháp.
Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương, thành viên của các hội đồng nhân dân và các công chức địa phương khác theo quy định của pháp luật đều được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp trong cộng đồng.
Điều 94
Chính quyền địa phương có thẩm quyền trong quản lý tài sản của mình, thực thi các công việc, quản trị hành chính và ban hành các quy định của mình phù hợp với các quy định của pháp luật.
Điều 95
Quốc hội không thể thông qua một đạo luật để áp dụng cho một địa phương nếu đa số cử tri của địa phương đó không chấp thuận.
CHƯƠNG IX
TU CHÍNH ÁN
Điều 96
Việc sửa đổi Hiến pháp phải do Quốc hội đề xướng sau khi được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu của mỗi Viện thông qua.
Sau đó tu chính án phải được đa số nhân dân phê chuẩn trong một cuộc trưng cầu ý dân hay qua một cuộc tổng tuyển cử đặc biệt do Quốc hội ấn định.
Tu chính án sau khi được nhân dân chuẩn y sẽ lập tức được Hoàng đế với tư cách đại diện cho nhân dân phê chuẩn như một phần thống nhất của Hiến pháp này.
CHƯƠNG X
ĐẠO LUẬT TỐI CAO
Điều 97
Những quyền con người cơ bản theo quy định của Hiến pháp này được bảo đảm cho toàn thể nhân dân Nhật Bản là kết quả tranh đấu hàng nghìn năm của con người để bảo vệ tự do. Những quyền đó tồn tại sau nhiều thử thách gian lao và được giao lại cho thế hệ hiện tại cũng như thế hệ tương lai để họ mãi mãi bảo vệ, giữ gìn.
Điều 98
Hiến pháp là đạo luật tối cao của quốc gia. Tất cả các đạo luật, sắc lệnh, các công bố của Hoàng gia hoặc các hoạt động của chính quyền hoặc một bộ phận chính quyền trái với Hiến pháp đều không có giá trị pháp lý và không có giá trị thi hành.
Chính phủ phải tôn trọng các hiệp ước kí kết của quốc gia và quốc tế.
Điều 99
Hoàng đế, Nhiếp chính cũng như các Bộ trưởng, đại biểu Quốc hội, Thẩm phán và các viên chức quốc gia đều phải có nghĩa vụ bảo vệ Hiến pháp.
CHƯƠNG XI
ĐIỀU KHOẢN PHỤ
Điều 100
Hiến pháp có hiệu lực kể từ 6 tháng sau khi ban hành.
Quốc hội ban hành các đạo luật thi hành Hiến pháp, thủ tục bầu Thượng nghị sĩ, thủ tục triệu tập Quốc hội và các thủ tục chuẩn bị cần thiết khác cho việc thi hành Hiến pháp này phải được ban hành trước thời hạn ấn định ở đoạn trên.
Điều 101
Nếu Thượng nghị viện chưa được bầu xong trước thời hạn Hiến pháp này có hiệu lực, Hạ nghị viện sẽ thực hiện các chức năng của Quốc hội cho tới khi Thượng nghị viện được thành lập.
Điều 102
Một nửa số Thượng nghị sĩ được bầu tại cuộc tổng tuyển cử đầu tiên theo quy định của Hiến pháp này có nhiệm kỳ là 3 năm. Việc ấn định các thành viên có nhiệm kỳ 3 năm sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 103
Các Bộ trưởng, hạ nghị sĩ, Thẩm phán đương chức vào thời điểm Hiến pháp có hiệu lực và các công chức khác đang giữ các chức vụ tương ứng với các chức vụ được quy định trong Hiến pháp này sẽ vẫn giữ nguyên chức vụ, trừ trường hợp đặc biệt do luật pháp quy định. Tuy nhiên, nếu người kế nhiệm đã được tuyển chọn theo đúng quy định của Hiến pháp thì các công chức cũ phải từ bỏ chức vụ.
Post a Comment