Hoàn Thiện Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Môi Trường Ở Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài.
Môi trường là một yếu tố quan trọng đảm bảo phát triển bền vững của một quốc gia. Ở Việt Nam, môi trường đang bị suy thoái, ô nhiễm một cách nghiêm trọng, đặc biệt là tranh chấp môi trường ngày càng tăng và diễn ra theo chiều hướng phức tạp cả về số lượng lẫn mức độ vi phạm.
Tranh chấp môi trường cũng có nhiều vấn đề cần xem xét trên cả khía cạnh pháp lý và thực tiễn. Bởi có quá nhiều vấn đề phát sinh, chưa có tiền lệ hoặc thiếu sự hiểu biết còn hạn chế. Bởi vậy, tìm ra cơ chế giải quyết thích hợp cho loại quan hệ này là vấn đề cần đáng được quan tâm.
Vì vậy nhu cầu của xã hội về các vấn đề môi trường đang càng trở nên được chú ý, việc Luật bảo vệ Môi trường sắp được sửa đổi sẽ giúp hoàn thiện cơ chế, quy định về bảo vệ môi trường, với những vấn đề yêu cầu cấp thiết cơ bản như trên cho thấy mức độ cần thiết mà đề tài “Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam” mà nhóm thực hiện.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Trong nước có khá nhiều đề tài nghiên cứu về môi trường cũng như pháp luật về môi trường, nhưng chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.
Một là – Đề tài: “Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường” của TS. Vũ Thu Hạnh, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lí số 3/2007. Bài viết đi sâu vào phân tích cơ chế bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường và thực trạng ở Việt Nam hiện nay.
Hai là – Đề tài “Các quy định pháp luật về xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và định hướng xây dựng, hoàn thiện” của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị và Ths. Bùi Đức Hiển, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2011. Bài viết này đưa ra những phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về thiệt hại và xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam và đề xuất định hướng xây dựng và hoàn thiện.
Ba là – Đề tài: “Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở Australia” của TS. Vũ Thu Hạnh và Ths. Trần Thị Hương Trang, đăng trên “http://l-psd.org/?detail:46:Cac-phuong-thuc-giai-quyet-tranh-chap-moi-truong-o-Australia.html”. Viết về hoạt động, cách thức giải quyết tranh chấp môi trường ở nước ngoài, mà cụ thể tại Australia. Bài viết đã cũng cấp những giá trị cho việc thấy được những bất cập thiếu sót trong pháp luật của ta so với nước ngoài. Từ đó rút được kinh nghiệm cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về môi trường ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp môi trường và kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc giải quyết tranh chấp môi trường nhằm tìm ra những điểm mới, phù hợp với pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường. Qua đó giúp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả và thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Phân tích những bất cập trong các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Các quy định pháp luật về việc giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam và thực tiễn một số vụ giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu chúng tôi có sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp chuyên gia. Trong đó hai phương pháp phân tích và so sánh là hai phương pháp chủ đạo.
6. Nội dung nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.
Chương 2. Thực trạng về pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp môi trường tại Việt Nam.
Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Môi trường.
1.1.1.1 Định nghĩa về môi trường.
Khái niệm “môi trường” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Theo nghĩa thông thường, môi trường được coi là “toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy”; là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”.
“Môi trường” sử dụng trong khoa học pháp lý là một khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được cho là những yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đưa ra khái niệm môi trường như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
1.1.1.2 Đặc điểm của môi trường.
Môi trường là một thể thống nhất không tách rời, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, nên các tác động xấu đến thành phần môi trường này sẽ ảnh hưởng xấu đến thành phần môi trường khác (Theo hiệu ứng mi nô). Các tác động đến môi trường thường diễn ra trên quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan trực tiếp đến điều kiện sống của nhiều người.
1.1.2 Tranh chấp môi trường.
1.1.2.1 Định nghĩa tranh chấp môi trường.
Trong khoa học học pháp lí, tranh chấp môi trường là thuật ngữ có nguồn gốc từ thông lệ quốc tế, được hình thành qua thực tiễn xét xử các vụ khiếu kiện quốc tế về môi trường vào đầu thế kỉ XX.
Tranh chấp môi trường được hiểu là những xung đột giữa các cá nhân, tổ chức, các công đồng dân cư về quyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về quyền được sống trong môi trường trong lành và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do làm ô nhiễm môi trường gây nên.
Ngoài ra, theo TS. Nguyễn Văn Phương thì: “Tranh chấp môi trường là những mâu thuẫn bất đồng ý kiến của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
1.1.2.2 Đặc trưng của tranh chấp môi trường.
Một là: Tranh chấp môi trường là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công thường gắn chặt với nhau. Đây là nét đặc trưng cơ bản nhất của tranh chấp môi trường. Đặc trưng này bắt nguồn từ chỗ lợi ích mà các bên tham gia quan hệ pháp luật môi trường hướng tới mang tính đa chiều.
Hai là: Tranh chấp môi trường thường xảy ra với quy mô lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư, thậm chí đến nhiều quốc gia. Đặc trưng này xuất phát từ đặc điểm của môi trường là một thể thống nhất không thể tách rời, không bị hạn chế về không gian, thời gian.
Ba là: Vị thế của các bên trong tranh chấp môi trường thường không cân bằng. Phần lớn tranh chấp môi trường có một bên tham gia là chủ các dự án phát triển hoặc các cơ quan quản lí, trong khi phía bên kia chỉ là những dân thường với những yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng môi trường sống chung của con người.
Bốn là: Tranh chấp môi trương có thể nảy sinh ngay từ khi chưa có sự xâm hại thực tế đến các quyền và lợi ích hợp pháp về môi trường. Thời điểm xác định các tranh chấp môi trường nảy sinh thường sớm hơn so với thời điểm xác định nảy sinh tranh chấp khác. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, các bên còn yêu cầu loại trừ trước khả năng xâm hại môi trường.
Năm là: Giá trị thiệt hại trong tranh chấp môi trường thường rất lớn và khó xác định. Điều này bắt nguồn từ thực tế là hậu quả do hành vi gây thiệt hại đối với môi trường thường rất nghiêm trọng, đa dạng và biến đổi với nhiều cấp độ khác nhau.
1.1.2.3 Phân loại tranh chấp môi trường.
Tranh chấp môi trường gồm các dạng chủ yếu sau:
Một là: Tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư, nhà sản xuất trong việc khai thác, sử dụng chung các nguồn tài nguyên và các yếu tố môi trường.
Hai là: Tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư với các tổ chức cá nhân khác về việc đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên. Dạng này bao gồm cả những tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại gây ra từ các sự cố môi trường.
Ba là: Tranh chấp nảy sinh trong quá trình tiến hành các dự án phát triển gây ảnh hưởng hoặc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến các yếu tố môi trường thuộc quyền quản lí, sử dụng hợp pháp của các chủ thể khác.
1.1.3 Giải quyết tranh chấp môi trường.
1.1.3.1 Định nghĩa giải quyết tranh chấp môi trường.
Trong khoa học pháp lí có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giải quyết tranh chấp. Thông thường, giải quyết tranh chấp được hiểu là các hoạt động khắc phục, loại trừ tranh chấp đã phát sinh bằng một phương pháp nào đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội.
Xuất phát từ định nghĩa về “cơ chế”, cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung, cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường nói riêng là hệ thống thống nhất các phương tiện pháp lí đặc thù, thông qua đó thực hiện việc giải tỏa mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ trật tự xã hội. Các phương tiện pháp lí đặc thù để giải quyết tranh chấp môi trường bao gồm:
Các nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo.Hệ thống pháp luật thực định là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp.Tổ chức bộ máy để vận hành và các yếu tố con người để thực thi pháp luật.
1.1.3.2 Những yêu cầu đặt ra trong quá trình giải quyết tranh chấp môi trường.
Với các đặc trưng cơ bản của tranh chấp môi trường nêu trên, việc giải quyết tranh chấp môi trường đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Một là: Ưu tiên bảo vệ các quyền và lợi ích chung về môi trường của cộng đồng, của xã hội. Do tranh chấp môi trường vừa là xung đột lợi ích tư vừa là xung đột lợi ích công nên yêu cầu đặt ra trong quá trình tìm kiếm cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường là phải làm thế nào để có thể dung hòa được cả hai loại lợi ích, vừa bảo vệ được lợi ích của từng cá nhân, từng tổ chức song đồng thời (Và trước hết) phải bảo vệ được các lợi ích của cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của số đông.
Hai là: Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các bên để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Do sự ràng buộc một cách tự nhiên của các yếu tố môi trường với tư cách là điều kiện sống chung của mọi người nên giải quyết tranh chấp môi trường không chỉ đơn thuần là giải tỏa mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp, kết luận về việc thắng hay thua kiện đối với mỗi bên mà điều quan trọng là phải duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp để họ có thể cùng nhau khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường sống một cách liên tục, thường xuyên.
Ba là: Ngăn chặn sớm nhất sự xâm hại đối với môi trường. Do tính chất không thể sửa chữa được đối với những thiệt hại môi trường nên các tranh chấp môi trường nảy sinh khi thiệt hại thực tế chưa xảy ra cũng phải được giải quyết triệt để nhằm ngăn chặn trước hậu quả. Quá trình giải quyết tranh chấp môi trường cần loại trừ hoặc giảm thiểu mọi khả năng xâm hại tới môi trường. Nói cách khác, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trách nhiệm dung hòa lợi ích đối lập phải được đặt ra ngay từ khi các tác động xấu đến môi trường chưa xuất hiện, thiệt hại thực tế chưa xảy ra.
Bốn là: Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại về môi trường. Do thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên việc đánh giá đầy đủ những thiệt hại gây nên đối với môi trường cũng như ảnh hưởng của nó đến các mặt kinh tế, xã hội đòi hỏi phải dựa trên những căn cứ khoa học nhất định. Do môi trường là tổng thể các thành tố từ tự nhiên đến nhân tạo và phần lớn trong số đó luôn ở trạng thái động, tương hỗ với nhau nên không một ai trong số các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp môi trường có đủ khả năng và điều kiện để thu thập và đánh giá một cách toàn diện những tổn thất về môi trường mà cần phải có những thu thập, đánh giá và kết luận của các nhà chuyên môn. Điều này có nghĩa là cần phải có cách tiếp cận khác đối với nghĩa vụ chứng minh, thủ tục tranh tụng trong quá trình giải quyết tranh chấp môi trường.
Năm là: Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh. Do tranh chấp môi trường thường xảy ra giữa các nhóm xã hội (các cộng đồng dân cư) nên ảnh hưởng về mặt kinh tế, xã hội rất lớn. Kiểm soát chặt chẽ xung đột môi trường đang tiềm ẩn và giải quyết chúng một cách nhanh chóng, kịp thời sẽ góp phần đảm bảo trật tự xã hội, tránh sự chuyển hóa một cách tự phát những tranh chấp nhỏ, đơn giản, trong phạm vi hẹp thành các cuộ biểu tình chính trị, khiếu kiện kéo dài, gây rối loạn trật tự xã hội.
1.2 Pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường.
1.2.1. Định nghĩa pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường.
Pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định các hệ thống thống nhất đảm bảo việc thực hiện các biện pháp giải tỏa mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, bảo vệ trật tự xã hội.
1.2.2. Sự phát triển về pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Luật bảo vệ môi trường 1993 chưa có quy định cụ thể nào nói về giải quyết tranh chấp môi trường. Cho đến Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì đã có các quy định cụ thể liên quan đến giải quyết tranh chấp môi trường. Cùng với đó là các văn bản khác cũng có quy định về nó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp phổ biến nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được xác định theo pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó thẩm quyền giải quyết tranh chấp được xác định theo đối tượng tranh chấp sẽ là: Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm các vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa nước ngoài. Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử theo phạm vi lãnh thổ thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc tòa án nơi địa phượng bị đơn cư trú, làm việc (Đối với các nhóm), hoặc là nơi bị đơn có trị sở.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế: Vì những đặc thù về chủ thể, vụ việc và sự nhạy cảm chính trị của các tranh chấp môi trường quốc tế mà các phương pháp gỡ rối những mẫu thuẫn này cần có những nguyên tắc riêng. Nguyên tắc đầu tiên và có lẽ cũng là quan trọng nhất khi giải quyết các tranh chấp về môi trường quốc tế đó là giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp quốc tế của mình chỉ bằng các biện pháp hòa bình để từ đó hòa bình, an ninh quốc tế và công lí không bị đe dọa. Cụ thể là không được sử dụng sức mạnh hoặc đe dọa sử dụng sức mạnh, không được ép buộc hoặc áp đặt để giải quyết tranh chấp và không được sử dụng biện pháp khống chế để buốc bên tranh chấp khác phải theo cách giải quyết có lợi cho mình. Điều 33, Hiến chương Liên hợp quốc quy định một loạt biện pháp hòa bình để các bên tranh chấp có thể tự do lựa chọn.
Đó là đàm phán trực tiếp, trung gian, hòa giải, tòa án quốc tế.v.v. Việc lựa chọn biện pháp thích hợp hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và sự thỏa thuận tự nguyện của các bên tranh chấp. Trong trường hợp các bên tranh chấp sau khi đã áp dụng một trong các biện pháp hòa bình,vẫn chưa đạt kết quả, sẽ tiếp tục cùng nhau thương lượng để giải quyết hòa bình tranh chấp đó, đồng thời tự kiềm chế để không có những hành động làm phức tạp thêm quan hệ của mình hoặc nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế.
1.2.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường ở các nước khác.
Hệ thống tòa án nước ngoài giải quyết tranh chấp có hai mô hình cơ bản là:
Một – Hệ thống tòa án thường tụng (Trực tiếp là tòa án dân sự). Thông thường, Tòa án tỉnh hoặc tòa án vùng sẽ thụ lý giải quyết các vụ án môi trường. Tòa thượng thẩm tòa án tối cao có thẩm quyền cuối cùng giải quyết các vụ án môi trường.
Hai – Hệ thống các tòa môi trường bên cạnh hệ thống tòa án dân sự (Một loại tòa đặc tụng). Tòa môi trường có thẩm quyết tất cả các vụ án có liên quan đến khai thacsử dụng tác động đến các yếu tố môi trường (Không phụ thuộc vào vào tính chất dân sự hay phi dân sự của vụ án).
Chương 2.
THỰC TRẠNG
VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
2.1 Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường
2.1.1 Quy định về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Nói về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam được quy định ở Luật bảo vệ môi trường 2005, Bộ luật dân sự 2005. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với những quy định cụ thể như
Tại Luật bảo vệ môi trường 2005, vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại được quy định tại Chương XIV. Cụ thể được quy định tại Điều 129 – Tranh chấp môi trường như sau:
“1. Nội dung tranh chấp về môi trường bao gồm:
a) Tranh chấp về quyền, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng thành phần môi trường;
b) Tranh chấp về việc xác định nguyên nhân gây ra ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về trách nhiệm xử lý, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường gây ra.
2. Các bên tranh chấp về môi trường bao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường có tranh chấp với nhau;
b) Giữa tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng các thành phần môi trường và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cải tạo, phục hồi khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái, bồi thường thiệt hại về môi trường.
3. Việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Tranh chấp về môi trường trên lãnh thổ Việt Nam mà một hoặc các bên là tổ chức, cá nhân nước ngoài được giải quyết theo pháp luật Việt Nam; trừ trường hợp có quy định khác trong điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Theo đó, tranh chấp môi trường được xem là một dạng tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và có thể được giải quyết theo pháp luật dân sự, pháp luật về tố tụng dân sự
Chính vì tính chất dân sự được thừa nhận ở trên, mà các tranh chấp về môi trường ở Việt Nam được công nhận những phương thức giải quyết tương ứng; Quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể như sau:
Một: Tại Điểm d, khoản 3, Điều 122 Luật bảo vệ môi trường 2005 có quy định về trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về môi trường của ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã về vấn đề hòa giải các tranh chấp môi trường. Đó là “Hoà giải các tranh chấp về môi trường phát sinh trên địa bàn theo quy định của pháp luật về hoà giải”
Hai: Tại điều 133 Luật bảo vệ môi trường 2005 có quy định về việc giải quyết bồi thường thiệt hại. Theo đó “việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường được quy định như sau:
1. Tự thoả thuận của các bên;
2. Yêu cầu trọng tài giải quyết;
3. Khởi kiện tại Toà án.”
Tại chương XXI của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng” quy định về những tranh chấp môi trường có đòi bồi thường thiệt hại giữa các bên chủ thể sẽ được tiến hành theo quy trình tố tụng. Theo đó phương thức giải quyết tranh chấp môi trường theo luật dân sự được tiến hành tại cơ quan chức năng có thẩm quyền, hay bằng con đường tố tụng tòa án.
Vì các tranh chấp môi trường được xem là một tranh chấp dân sự như đã nói ở trên, nên ngoài phương thức giải quyết tranh chấp qua hòa giải và tố tụng tại tòa án. Tranh chấp môi trường ở Việt Nam cũng có thể được tiến hành giải quyết qua phương thức thương lượng, thỏa thuận giữa các bên chủ thể như đúng tinh thần, nguyên tắc của Bộ luật dân sự 2005. Phương thức bồi thường thiệt hại được quy định tại điều 605 – Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”
2.1.2 Một số bất cập trong quy định về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Các quy định về giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam về cơ bản tồn tại một số những bất cập trong những quy định về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường như sau:
Thứ nhất là: Việc giải quyết tranh chấp môi trường qua phương thức trung gian và hòa giải còn chưa được quy định rõ, nói về phương thức giải quyết này pháp luật chỉ có quy định là thuộc trách nhiệm thực hiện của UBND được quy định tại điều 122 Luật bảo vệ môi trường 2005, đồng thời sẽ được tiến hành theo quy định về pháp luật hòa giải.
Nói về phương thức hòa giải được hiểu theo nghĩa cơ bản là các bên tranh chấp có xung đột về quyền và lợi ích môi trường được tạo điều kiện tiến hành hòa giải qua trung gian của một cơ quan, tổ chức để tiến tới tìm được tiếng nói chung, giải quyết được xung đột một cách nhanh chóng và ít tốn kếm, phương thức này về cơ bản được khá nhiều pháp luật trên thế giới công nhận và sử dụng hiệu quả trong giải quyết tranh chấp môi trường. Nhưng ở Việt Nam việc quy định mang tính hình thức và chung chung về phương thức hòa giải không những không mang lại những hiệu quả cần thiết mà còn vi phạm tới quyền lợi của một số chủ thể, khi giữa hai bên tranh chấp không có được sự tương đồng về quyền, vị thế.
Trong những tranh chấp về môi trường ở Việt Nam có 2 dạng tranh chấp cơ bản mà vị thể giữa các bên chủ thể không cân bằng: Tranh chấp giữa người dân với doanh nghiệp, công ty xả thải; Tranh chấp giữa chủ thể gây ô nhiễm tới lợi ích công với cơ quan nhà nước. Chính ở hai dạng tranh chấp này hòa giải không được quy định rõ gầy nên việc không áp dụng được hoặc áp dụng không hiệu quả, ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ thể.
Thứ hai là: Phương thức giải quyết tranh chấp qua con đường tự thỏa thuận theo nguyên tắc của pháp luật dân sự. Về cơ bản các quy định về dân sự mà cụ thể là nguyên tắc tự thỏa thuận được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 là hợp lý. Nhưng như đã nói ở mục 1.1.1.2 thì đặc điểm của môi trường là khá đặc biệt việc quy định phương pháp tự thỏa thuận như dân sự trong nhiều trường hợp dẫn tới không thỏa đáng khi mà việc xác định hậu quả ô nhiễm hay, hay sự bất cân đối về vị thế giữa các chủ thể gây ảnh hưởng tới đàm phán và kết quả thỏa thuận giữa các chủ thể tranh chấp.
Thứ ba là: Phương pháp giải quyết tranh chấp môi trường qua con đường tố tụng tại tòa án tồn tại khá nhiều bất cập, vì được quy định giải quyết theo Bộ luật dân sự 2005 với quy định về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng với đặc điểm của môi trường là đặc biệt, khác hẳn với những những đối tượng khác trong Bộ luật tố tụng dân sự 2005 nên trong quá trình giải quyết xuất hiện nhiều điểm bất cập như chủ thể khời kiện, điều kiện khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh... Những bất cập này nhóm nghiên cứu xin được chỉ rõ ở các phần sau.
2.1.3 Một số bất cập trong thực hiện các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Thực tế trong việc giải quyết các tranh chấp môi trường ở Việt Nam các quy định về phương thức tranh chấp còn thiếu và khá là yếu trong việc triên khai thực hiện.
Thứ nhất: Về việc giải quyết qua con đường hòa giải và trung gian được quy định tài Khoản 3, Điều 122 Luật bảo vệ môi trường 2005 chỉ quy định hòa giải là trách nhiệm của UBND cấp xã theo pháp luật về hòa giải, với quy định như vậy chưa làm rõ được vai trò chính xác của cơ quan nhà nước trong hòa giải, việc tiến hành hòa giải tranh chấp môi trường được tiến hành như thế nào? Thủ tục hòa giải ra sao? Hiệu lực pháp lý của hòa giải? Là những vấn đề luật không có quy định, dẫn tới việc áp dụng hòa giải vào giải quyết khá là hạn chế, không phát hiệu được ưu điểm của hòa giải trung gian trong giải quyết tranh chấp môi trường.
Vị trí của phương thức hòa giải đang được quy định một cách riêng biệt, có nên đưa hòa giải vào là một bước, tiến trình bắt buộc trong giải quyết tranh chấp môi trường qua khởi kiện tại tòa án để hòa giải có được giá trị, giảm bớt các tranh chấp phát sinh trước khi khởi kiện.
Ngoài ra Luật hòa giải cơ sở năm 2013 là pháp luật mới nhất về hòa giải. Nhưng ở Điều 1 luật này lại không quy định hòa giải ở UBND cấp xã thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Đây cũng là một điểm bất cập trong giải quyết bằng hòa giải trung gian.
Thứ hai: Phương thức giải quyết tranh chấp bằng tự thỏa thuận trong thực tiễn áp dụng xuất hiện những vụ việc tranh chấp mà ở đấy các bên chủ thể có sự mất cân bằng về vị thế, như đã nói ở mục trên việc tự thỏa thuận với yếu tố môi trường có đặc điểm là vừa có thể xâm hại lợi ích cộng đồng, vừa có thể xâm hại lợi ích cá nhân nên trong giải quyết tranh chấp môi trường thực tế, tự thỏa thuận giữa các bên tranh chấp đôi khi không đồng nhất lợi ích.
Thứ ba: Như đã nói ở mục 2.1.2 thì phương thức giải quyết tranh chấp môi trường ở tòa án có khá nhiều bất cập. nguyên nhân lớn nhất là do sự đồng nhất bê nguyên giải quyết theo lĩnh vực dân sự vào các tranh chấp có tính chất môi trường. Một yếu tố có nhiều đặc điểm riêng biệt cần phải có sự phân biệt rõ ràng nhưng việc tiến hành giải quyết tranh chấp lại được tiến hành hoàn toàn theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004 bộc lộ nhiều điểm hạn chế về thời hiệu, chủ thể khởi kiện.
Đơn cử như trong vụ việc Vedan xả thải gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng sông Thị Vải, trong tiến trình tiến hành giải quyết kiện đòi lợi ích, bồi thường thiệt hại cho người dân bị ô nhiễm quanh sông Thị vải đã đứng trước nguy cơ không thể tiến hành tố tụng dân sự kiện đòi bồi thường thiệt hại với những khó khăn như chủ thể khởi kiện quá nhiều, thời hiệu khởi kiện không rõ ràng, tư cách tố tụng cho lợi ích cộng đồng không được tiến hành... Trong vụ việc Vedan, nhờ có sự chung sức từ cộng đồng, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực mới có thể giải quyết theo phương thức thỏa thuận… Từ vụ việc này cho thấy quy định về giải quyết tranh chấp môi trường tại tòa án theo tố tụng dân sự tồn tại khá nhiều điểm khó thực thi. Các điểm bất cập này sẽ được nhóm nghiên cứu phân tích kỹ hơn ở các mục sau đây.
2.2 Chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp môi trường.
2.2.1 Các quy định hiện hành về chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Chúng ta biết tranh chấp môi trường là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công cộng thường gắn chặt với nhau, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các bên tham gia quan hệ, dù tham gia vì lợi ích tư thì vẫn hướng tới lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội.
Điều này cho thấy tranh chấp có thể nảy sinh trong phạm vi khu dân cư, tại một địa phương hoặc nhiều địa phương, trong phạm vi khu vực và quốc tế, như vậy cho thấy tranh chấp môi trường có thể nảy sinh trong bất cứ chủ thể nào, không phụ thuộc vào cá nhân hay tổ chức, công quyền hay dân quyền người trong nước hay người ngoài, quốc gia phát triển hay đang phát triển giữa họ có hay không có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp đồng hay công vụ.
Vậy sự tranh chấp nào cũng phải đòi hỏi chủ thể tham gia trong tranh chấp nói chung và tranh chấp trong lĩnh vực môi trường nói riêng một bên là nguyên đơn và bị đơn và cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì chủ thể tham gia giải quyết các tranh chấp môi trường được quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2005, Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004; Cụ thể như sau:
Thứ nhất là: Các chủ thể tham gia vào tranh chấp môi trường với yêu cầu đòi quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc chứng minh rằng mình không có trách nhiệm phải bồi thường theo quy định về hòa giải tại Điều 122 khoản 3 – Luật bảo vệ môi trường 2005.
Nếu tranh chấp môi trường tiến hành ở tòa án qua còn đường tố tụng thì có thể xem là các bên đương sự tham gia giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Theo theo điều 56 trong Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự 2011. Quy định về đương sự trong vụ án dân sự:
“1. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.
3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về quyền khởi kiện vụ án.
”Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Ngoài ra với chủ thể khởi kiện tại tố tụng tòa án pháp luật Việt Nam có những quy định về những tổ chức, cơ quan có quyền trở thành chủ thể khơi kiện. Như tại Điều 162, khoản 3 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 mới chỉ quy định “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”. Và điều Điều 56, khoản 2 Bộ Luật tố tụng dân sự (2004) quy định “Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Theo đó pháp luật Việt Nam đã có quy định về việc một cơ quan nhà nước, tổ chức có thể đứng ra làm nguyên đơn khởi kiện trong một sự án dân sự . Để một cơ quan tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự thì cơ quan tổ chức đấy phải thỏa mãn những điều kiện được quy định tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao ngày 12/5/2006 , cụ thể ở phần I, mục 2 : “Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước quy định tại Khoản 3 Điều 162 của Bộ Luật tố tụng dân sự khi có đầy đủ các Điều kiện sau đây: (1) Cơ quan, tổ chức đó có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực nhất định; và (2) Lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Toà án bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách”.
Tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao ngày 12/05/2006 thì “Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng”.
Thứ hai là: Những chủ thể tham gia vào giải quyết tranh chấp môi trường có thẩm quyết giải quyết. Ở những tranh chấp môi trường được tiến hành theo phương thức hòa giải thì cơ quan có thẩm quyển giải quyết tiến hành hòa giải là UBND cấp xã theo quy định tại khoản 3 Điều 122 Luật bảo vệ môi trường.
Ở những tranh chấp môi trường được tiến hành theo phương thức trọng tài, giải quyết theo quy định tại điều khoản 2, Điều 133 Luật bảo vệ môi trường 2005. Tuy nhiên luật không quy định rõ trọng tài giải quyết sẽ được tiến hành như thế nào. Cơ quan trọng tài là chủ thể ra sao.
Quan trọng nhất ở những tranh chấp môi trường là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở điều 25 – Bộ luật tố tụng dân sự 2004 được tiến hành theo phương pháp tố tụng tại tòa án. Sẽ được tiến hành bởi cơ quan tòa tòa án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Điều 33 – Bộ luật tố tụng dân sư 2004 quy định về thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh như sau:
“1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.”
2. Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
a) yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này;
b) yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 28 của Bộ luật này.
3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện”.
Thẩm quyền theo tòa án l ãnh thổ tại khoản 1, điều 35
“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.”
Có thể dễ dàng nhận thấy cơ quan tiến hành giải quyết tranh chấp môi trường tại tòa án hoàn toàn được pháp luật tiến hành với những tranh chấp dân sự nói chung ở Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
2.2.2 Các bất cập trong quy định về chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về tranh chấp môi trường như đã đề cập tới ở mục 2.2.1 cho thấy một số điểm bất cập trong các quy định hiện hành như sau:
Thứ nhất: Như đã nói ở mục 2.1 về các phương thức giải quyết tranh môi trường các quy định về phương thức hòa giải cũng như trọng tài chưa được quy định một cách rõ ràng. Việc chủ thể đứng ra giải quyết các tranh chấp bằng con đường hòa giải là UBND cấp xã chưa thật sự hợp lý. ở chủ thể tiến hành giải quyết qua trọng tài thì chưa có luật định chủ thể nào có đủ điều kiện làm trọng tài về các vấn đề tranh chấp môi trường. Trọng tài kinh tế hoặc trọng tài lao động chưa thực sự đủ chức năng cũng như năng lực để tiến hành làm trọng tài trong các vụ việc tranh chấp môi trường yêu cầu.
Chủ thể giải quyết tranh chấp ở tòa án mà cụ thể là con đường khởi kiện theo Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Với quy định theo cấp và lãnh thổ thì về cơ bản là hoàn toàn giống với bất kì một vụ án, vụ việc dân sự khác đều sẽ được tiến hành xét xử ở các tòa án theo lãnh thổ và theo cấp địa phương (Tòa án cấp huyện). Việc quy định như vậy dễ dẫn tới những tranh chấp có tính chất rộng nhiều địa phương và thiệt hại mang giá trị lớn không được giải quyết ở cấp xét xử cao hơn, chứng tỏ tư tưởng lập pháp vẫn chưa thực sự xem trọng tranh chấp môi trường so với những lĩnh vực khác.
Thứ hai là: Về những đương sự tham gia tranh chấp môi trường tại tòa án. Ở đây chúng ta tập trung vào phân tích những nguyên đơn – chủ thể có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Hay nói cách khác là những chủ thể khởi kiện tranh chấp ở những chủ thể này có những bất cập tồn tại khá lớn.
Ở chủ thể là cá nhân, tổ chức kiện đòi bồi thường thiệt hại gắn với quyền lợi của mình là việc áp dụng quy định dân sự vào các vụ việc môi trường. Điều này dẫn tới những vụ việc có nhiều chủ thể khởi kiện phải tự khởi kiện yêu cầu của mình gây ra một khó khăn cho tòa án giải quyết (thường là tòa án cấp huyện nơi bị đơn có trụ sở), số lượng chủ thể khởi kiện lớn gây ra quá tải ở tòa án, có thể gây ảnh hưởng tới thời hiệu trong tố tụng dân sự.
Tiếp theo, đề cập tới điều kiện để một cá nhân, tổ chức khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại phải đáp ứng những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Đó là chứng minh ban đầu rằng yêu cầu của mình là hợp pháp và thỏa đáng, có thiệt hại thực tế diễn ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại, tạm gọi là điều kiện khởi kiện. Việc chứng minh này với những cá nhân, tổ chức thường bị hạn chế về năng lực chuyên môn, tầm hiểu biết… dẫn tới khó khăn cho việc khởi kiện tại tòa án, vấn đề này nhóm nghiên cứu xin phép được chỉ rõ hơn ở mục nghĩa vụ chứng mình tiếp sau.
Ở chủ thể khởi kiện là cơ quan , tổ chức kiện đòi bồi thường thiệt hại cho lợi ích công cộng. Quy định quyền trở thành nguyên đơn có quyền khởi kiện với những cơ quan, tổ chức để đảm bảo quyền lợi và lợi ích công cộng theo quy định tại điều 162 và 56 Bộ luật tố tung dân sự 2004, cần phải khẳng định rằng quyền khởi kiện này không được quy định một cách rõ ràng, mà cụ thể là trong lĩnh vực môi trường, chúng ta có thể thấy bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định. Cần phải khẳng định rằng pháp luật Việt Nam thừa nhận quyền khởi kiện của các cơ quan, tổ chức cho việc đòi lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước và xã hội trong tranh chấp môi trường nhưng việc quy định một cách mơ hồ dẫn tới quyền khởi kiện của những tổ chức này thực sự mập mờ , không xác định được rõ trong các cơ quan có thể có đủ điều kiện khởi kiện cơ quan, tổ chức nào phải có trách nhiệm đứng ra làm chủ thể khởi kiện dân sự.
Theo quan điểm của Toàn án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao ngày 12/05/2006 về “Cơ quan Tài nguyên Môi trường” có quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại những thật sự không rõ ràng là cơ quan nào đứng ra; Nếu theo nhiệm vụ chuyên môn thì cơ quan có thẩm quyền khởi kiện phải là Bộ Tài nguyên Môi trường hoặc Sở Tài nguyên môi Trường. Nhưng nếu xét theo phương diên quản lí thì rõ ràng phải là Ủy ban nhân dân các cấp, nơi trực tiếp xảy ra vi phạm , việc quy định rõ ràng và dứt khoát là cần thiết.
2.2.3 Một số bất cập trong thực hiện các quy định về chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp môi trường.
Trong thực tế áp dụng những quy định về chủ thể trong tranh chấp môi trường xuất hiện một số bất cập gây ảnh hưởng tới việc giải quyết các tranh chấp môi trường một cách không hiệu quả. Không thỏa đáng về trách nhiệm cũng như bồi thường.
Thứ nhất: Theo Điều 5, Khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về việc khởi kiện của nguyên đơn – chủ thể khơi kiện khi có đơn khởi kiện và tòa án chỉ giải quyết trong phạm vị của đơn khởi kiện yêu cầu đó. Về cơ bản điều này là hợp lý với đa số các vụ án dân sự, nhưng trong quá trình áp dụng thực tiễn vào pháp luật tranh chấp môi trường lại dân tới những bất cấp khá lớn như.
Một vụ án đòi bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường khi xảy ra thường có quy mô lớn về mặt không gian, đồng thời dẫn tới nhiều chủ thể bị thiệt hại. Việc quy định tại Điều 5, Khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 cho thấy: Khi có thiệt hại về môi trường thì mỗi chủ thể bị thiệt hại phải tự mình đứng đơn khởi kiện để đòi bồi thường thiệt hại cho mình, chứ không thể cùng đứng tên khởi kiện với những nguyên đơn khởi kiện khác, dù có quan hệ do cùng một hành vi gây thiệt hại; Pháp luật Việt Nam không thừa nhân việc “khởi kiện tập thể”. Chính điều này dẫn tới những hạn chế như: Vụ án dân sự về môi trường không được thể hiện đầy đủ chỉ qua một đơn khởi kiện, vì tính rộng lớn của yếu tố môi trường, các tài liệu chứng cứ, yêu cầu của nhiều chủ thể bị thiệt hại mới có thể phản ánh đầy đủ nhất mức độ vi phạm của hành vi, trác nhiệm pháp lý của bị đơn. Nếu một vụ án có quá nhiều chủ thể khởi kiện đòi bồi thường. Mỗi chủ thể đều gửi đơn khởi kiện theo luật định thì sẽ dẫn tới sự quá tải ở cơ quan tòa án, mà cụ thể chủ yếu là cơ quan cấp huyện theo căn cứ vào khởi kiến vụ án dân sự theo lãnh thổ, tòa án cấp huyện thường có quy mô nhân lực không lớn, việc quá tải nếu diễn ra lớn rất dễ dẫn tới không hoàn thành những thời hạn quy định trong tố tụng dân sự (Tiêu biểu vẫn là vụ vedan năm 2011. Nếu xét xử theo tòa án sẽ có hàng ngàn đơn khởi kiện gửi tới toàn án nhân dân huyện Long Thành)
Thứ hai là: Việc khởi kiện của những cơ quan, tổ chức cho lợi ích chung hầu như không được tiến hành dù cho có sự công nhận về quyền khởi kiện trong các quy định pháp luật như đã nói ở trên. Có 1câu hỏi đặt ra là: Tại sao trong rất nhiều các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, mà điển hình là vụ Vedan năm 2011 không có bất cứ cơ quan Nhà nước, tổ chức có trách nhiệm nào đứng ra khởi kiện công ty Vedan? Lí do nhóm nghiên cứu đưa ra như sau:
Một – Theo điều 56 và 162 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, đều không có hướng dẫn rõ là cơ quan nào có quyền khởi kiện với tư cách là nguyên đơn khởi kiện trong cách vụ án dân sự đòi bồi thường thiệt hại về môi trường, là cơ quan quản lý môi trường theo chiều ngang là UBND, hay cơ quan quản lý môi trường ở theo trục dọc là Bộ Tài nguyên môi trường, Sở tài nguyên môi trường. Nếu là cơ quan này có quyền khởi kiện thì cơ quan kia đảm nhận công việc gì? Sự phân công trong lĩnh vực tố tụng về môi trường thực sự vướng mắc. Trong vụ việc Vedan, đáng ra cơ quan chính phủ phải có yêu cầu cụ thể cơ quan nào tham gia với tư cách nguyên đơn để bảo vệ lợi ích cộng đồng. Nhưng vì chưa có tiền lệ nào xảy ra trong quá khứ nên từ chính quyền trung ương tới, cơ quan địa phương đã thực sự gặp lung túng và không thể sử dụng phương pháp giải quyết tại tòa án.
Hai – Liệu trong trường hợp có cơ quan , tổ chức được trao quyền rõ ràng trở thành nguyên đơn khởi kiện trong tranh chấp môi trường thì yêu cầu về thiệt hại mà cơ quan tổ chức ấy có quyền hạn giới hạn được tới đâu, nhóm nghiên cứu cho rằng việc khởi kiện của cơ quan nhà nước không thể đòi bồi thường hộ những chủ thể bị thiệt hại khác mà cụ thể là người dân, cơ quan tổ chức chỉ có thể kiện bồi thường cho lợi ích chung của cộng đồng bị anh hưởng chứ không thể thay mặt, đại diên cho những quyền lợi, lợi ích riêng của từng người dân dù cho có mong muốn ủy quyền của họ.
2.3 Nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
2.3.1 Quy định về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam, mặc dù có tất cả 15 chương, 136 điều luật. Nhưng không có một chế định cụ thể nào quy định về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp về môi trường. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là không có quy định về nghĩa vụ chứng minh trong lĩnh vực tranh chấp môi trường.
Về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng nói chung, được quy định cụ thể tại điều 6, điều 7, điều 79, và điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 của nước CHXHCN Việt Nam.
Điều 6 – Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
“1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho đương sự.
2. Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do bộ luật này quy định”
Điều 7 – Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
“Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; Trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, VIện kiểm sát và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.”
Điều 79 – Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: Nghĩa vụ chứng minh.
“1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra được đầy đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.”
Điều 80 – Bộ luật tố tụng hình sự 2004 quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh:
“1. Những tình tiết sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ rang mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận.
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.”
Những quy định này cũng được xem là các quy định áp dụng cho nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp về môi trường.
Trong luật bảo vệ môi trường năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam chỉ quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường tại mục 2, chương XIV. Vấn đề này có thể hiểu rằng nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là nghĩa vụ bắt buộc, mà ở đó nguyên đơn khởi kiện phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình có căn cứ và hợp pháp, kể cả trong trường hợp nguyên đơn là cơ quan tổ chức bảo vệ quyền lợi ích công cộng. Đương sự có yêu cầu phản đối vủa mình với yêu cầu của nguyên đơn. Xét một cách tổng thể thì thứ tự nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 là logic. Do đó trong luật bảo vệ môi trường năm 2005 các nhà lập pháp Việt Nam đã nghĩ rằng không cần thiết phải quy định lại, mà chỉ quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại.
2.3.2 Một số bất cập trong quy định về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Theo nguyên tắc tố tụng trong chứng minh chứng cứ, thì khi giải quyết một vụ án dân sự, yêu cầu đối với nguyên đơn là phải chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp. Nếu áp dụng vào vụ án giải quyết tranh chấp môi trường thì rất khó khăn cho bên nguyên đơn, và có lợi thế cho bị đơn nhiều hơn. Bởi do tính chất đặc thù của môi trường, và các bên chủ thể tham gia vào tranh chấp môi trường là không cân xứng.
Thứ nhất: Giữa các chủ thể tham gia tranh chấp môi trường là bất cân xứng. Hiện nay một bên nguyên đơn là những cá nhân, tổ chức chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nguồn ô nhiễm. Một bên là những công ty được cho là tạo ra nguồn ô nhiễm môi trường. Giữa các bên tham gia tranh chấp môi trường này có sự chênh lệch về trình độ khoa học kỹ thuật lẫn nguồn tài chính. Nếu Nguyên đơn không chứng minh được bị đơn đã tạo ra nguồn ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng trực tiếp tới mình, thì các nguyên đơn sẽ thua kiện.
Thứ hai: Việc xác định và chứng minh các thiệt hại về tài sản do ô nhiễm môi trường có thể được thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên, việc xác định và chứng minh nguồn gây ô nhiễm môi trường thì không hề đơn giản. Việc xác định nguồn nào là nguồn gây ô nhiễm không thể chỉ quan sát bằng mắt thường, mà yêu cầu cần đến một trình độ hiện đại và tiên tiến, cộng với một nguồn tài chính khá lớn.
Từ đó chúng ta có thể thấy, một bên đương sự tham gia tranh chấp môi trường có thừa khả năng xác định và chứng minh được nguồn ô nhiễm thì không phải tiến hành chứng minh. Còn bên đướng sự còn lại, không có đủ khả năng chứng minh bên bị đơn là nguồn tạo ra ô nhiễm môi trường thì phải tiến hành xác định và chứng minh.
2.3.3 Một số bất cập trong thực hiện các quy định về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Thực tế khi áp dụng các quy định tố tụng về nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án có yếu tố môi trường gặp rất nhiều hạn chế. Cụ thể là ở vụ án vedan năm 2010.
Trong vụ kiện vedan năm 2010 của nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tỉnh Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Theo luật, thì những người nông dân phải trực tiếp chứng minh được rằng công ty vedan chính là công ty gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại đến tài sản của họ. Sông Thị Vải có chiều dài khoảng 30 km, bắt nguồn từ huyện Long Thành (Đồng Nai) chảy qua địa phận Bà Rịa - Vũng Tàu. Lưu vực sông Thị Vải có nhiều khu công nghiệp lớn của Đồng Nai như Nhơn Trạch, Gò Dầu và tiếp nhận lượng nước thải công nghiệp lớn.
Tháng 9/2008, Công ty Vedan bị cảnh sát môi trường phát hiện xả nước thải chui ra sông Thị Vải trong nhiều năm gây nên bức xúc trong dư luận. Đến cuối tháng 10/2009, công ty này bất ngờ được nhận giải thưởng "Sản phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng" khiến dư luận hết sức bức xúc. Sau đó, ban tổ chức giải này phải tiến hành thu hồi giải thưởng.
Gần 2 năm sau khi bị phát hiện cố tình xả thải thẳng ra sông Thị Vải, Công ty Vedan vẫn chưa bồi thường cho nông dân. Khi thời hạn khởi kiện (24 tháng sau sự việc) gần chấm dứt, Hội nông dân 3 tỉnh Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu đang củng cố hồ sơ đưa công ty này ra tòa. Tuy nhiên, việc thu thập chứng cứ, mức độ thiệt hại, tiền tạm ứng án phí nếu kiện là vấn đề rất lớn đối với đa số người bị hại là nông dân. Trong cuộc họp thương lượng giữa nông dân các xã tỉnh Đồng Nai ngày 7/7/2010, các khó khăn này lại một lần nữa được nêu lên. Lúc đó đại diện tỉnh Đồng Nai đã chỉ ra rằng: "Nếu muốn kiện, phải có chứng cứ để chứng minh thiệt hại như người nông dân đã tốn bao nhiêu tiền mua con giống, khi thu hoạch thì bán được bao nhiêu, hóa đơn. Chưa hết, để tính được ảnh hưởng do nước sông ô nhiễm, phải chứng minh được người nông dân tốn bao nhiêu tiền trị bệnh cho con giống". Và kết quả là người nông dân tỉnh Đồng Nai đã tiến hành hủy đơn kiện.
Từ thực tế đã chứng minh rằng, các quy định về nghĩa vụ chứng minh hiện nay trong tố tụng nếu áp dụng vào các vụ án có yếu tố môi trường thì gặp rất nhiều khó khăn bất cập, mà yêu cầu cần phải giải quyết ngay.
2.4 Thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
2.4.1 Quy định về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Theo Khoản 3 Điều 155 Bộ Luật dân sự thì: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
Việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Cụ thể những quy định về thời hiệu được thể hiện như sau:
Bộ luật dân sự 2005, chương XI Thời hiệu từ điều 154 cho tới điều 162 có quy định về thời hiệu, cách tính thời hiệu ví dụ :“Điều 154: Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyềnyêu cầu giải quyết việc dân sự.”
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi 2011 chương XI có quy định về thời hạn tố tụng cụ thể về Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tại điều 159 như sau: “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu:
1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.”
2.4.2 Các bất cập trong quy định về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Từ những quy định cụ thể về thời hiệu như đã đề cập ở mục 2.4.1 ở trên cùng với những ví dụ thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật mà nhóm nghiên cứu thu nhập được thì vấn đề khởi kiện trong tố tụng những vụ án có tính chất môi trường (chủ yếu là khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại) gặp những bất cập cơ bản sau:
Thứ nhất, là tính không thống nhất giữa hai Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 khi đưa vào áp dụng về thời hiệu khởi kiện trong những vụ án có tính chất môi trường, dẫn tới những cách hiểu sai về quy định thời hiệu khởi kiện. Theo Điều 160 của Bộ Luật dân sự (2005) quy định “Không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với trường hợp yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước; yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm hại, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” và quy định tại điểm b khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định “3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm”.
Theo quy định ở đây chúng ta có thể thấy bất cập trong thời hiệu khởi kiện khi áp dụng vào các vụ án có tính chất môi trường ở những điểm sau, đầu tiên trong trường hợp cơ quan tổ chức khởi kiện nhằm đảm bảo lợi ích công, cho xã hội có được xem là một hình thức không áp dụng thời hiệu theo khoản 3 điều 160 Bộ luật dân sự hay không, có nhiều quan điểm cho rằng trong trường hợp này cũng không nên áp dụng thời hiệu, tiếp theo là khi mà quyền nhân thân của một người bị xâm hại mà cụ thể là tính mạng, sức khỏe từ những hành vi gây ô nhiễm môi trường thì có được viện dẫn điều 160 để không áp dụng thời hiệu khởi kiện hay không, những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe vì ô nhiễm môi trường thường diễn ra chậm và kéo dài, nhưng theo Bộ luật tố tụng dân sự lại không có quy định tranh chấp về bôi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe (nhân thân) là tranh chấp không áp dụng thời hiệu, cuối cùng là việc ô nhiễm môi trường xảy ra trên diện rộng thường dẫn tới việc đồng thời xâm hại theo hai mặt là môi trường tự nhiên và sức khỏe con người. Ví dụ ô nhiễm môi trường hệ sông hồ nuôi trồng thủy sản sẽ dẫn tới suy giảm tới những giá trị được xem là của nhà nước (không áp dụng thời hiệu) và cả những thiệt hại cho cá nhân, tổ chức cụ thể như sản lượng, năng suât, thu nhập cơ bản (nếu quá hai năm thì không thể khởi kiện), câu hỏi đặt ra là nếu khởi kiện cùng một vụ việc cho thiệt hại nhà nước mà không khởi kiện cho thiệt hại cá nhân, tổ chức thì là vôi cùng bất hợp lý.
Thứ hai, với tính chất đặc thù là thiệt hại về môi trường thường khó để xác định, việc xác định quy định thời hiệu khởi kiện theo điểm b khoản 3 điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự là hai năm kể từ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại tỏ ra quá ngắn so với sự phức tạp trong pháp luật tranh chấp về môi trường. vướng mặc ở những nội dung như thiệt hại với môi trường thường diễn ra chập và lâu dài, những ô nhiễm môi trường nặng có nguy cơ cao dẫn tới những thiệt hại kéo dài trong nhiều năm, mà khi phát hiện có thiệt hại các bên tham gia tố tụng không tính tới.
2.4.3 Một số bất cập trong thực hiện các quy định về thời hiệu khởi kiện trong giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam.
Như ở trên đã trình bày thì việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng. Đối với các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thời hiệu khởi kiện được xác định là 2 năm kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm gây thiệt hại. Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục IV, Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/03/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm được xác định là ngày xảy ra hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ. Nhưng trên thực tế thì để xác định được thiệt hại xảy ra đã khó, việc xác định được thời gian xảy ra hành vi vi phạm gây thiệt hại còn khó hơn. Vì ô nhiềm môi trường không phải chỉ xảy ra ngày một ngày hai, không phải cứ có hành vi vi phạm mà môi trường đã bị ô nhiễm. Mà đó là sự tích tụ của nhiều hành vi gây ra và xảy ra trong một thời gian dài.
Do môi trường là một thể thống nhất không thể tách rời, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, nên các tác động xấu đến thành phần môi trường thường diễn ra trên quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan trực tiếp đến điều kiện sống của nhiều người. Tương ứng với phạm vi và mức độ của những tác động xấu tới môi trường là phạm vi và cấp độ của tranh chấp môi trường. Tranh chấp có thể nảy sinh trong phạm vi khu dân cư, tại một địa phương hoặc nhiều địa phương, trong phạm vi khu vực và quốc tế. Tương ứng với mức độ, phạm vi rộng lớn đó thì trong một vụ tranh chấp đó có thể sẽ có số lượng lớn những đơn khởi kiện. Pháp luật nước ta không quy định việc được khởi kiện tập thể, nên nếu tất cả những người bị thiệt hại đều khởi kiện thì số lượng đơn từ là khá lớn, Tòa án để có thể thụ lý được vụ án thì sẽ mất một thời gian dài mới thụ lý hết được số đơn thì có thể sẽ có rất nhiều đơn khi được thụ lý thì hết thời hạn khởi kiện. Như vậy việc quy định thời hiệu khởi kiện hai năm là ngắn không phù hợp với tính chất của một vụ án tranh chấp môi trường.
Kiến nghị giúp hoàn thiện pháp luật quy định về thời hiệu khởi kiện trong pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.
Qua sự nghiên cứ, áp dụng vào những vụ việc thực tế mà nhóm nghiên cứu thu nhập được, đồng thời phân tích lý luận về mặt pháp lý, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số khuyến nghị đóng góp vào việc xây dưng tốt vấn đề thời hiệu khởi trong pháp luật hiện hành về môi trường để có thể đảm bảo hơn nữa tính hiệu quả trong tranh chấp môi trường.
Thứ nhất cần phải có sự thống nhất giữa các quy định về thời hiệu khởi kiện trong luật dân sự và tố tụng dân sự một cách chắc chắn hơn nữa đối với khởi kiện trong tranh chấp pháp luật về môi trường. nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải xác định rõ tranh chấp môi trường về những lợi ích công cộng, những thiệt hại về nhà nước, và cả những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe do ô nhiễm, vi phạm pháp luật về môi trường phải được quy định rõ trong tố tụng dân sự là những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện, nói cách khác có thể khởi kiện không phụ thuộc vào thời gian.
Thứ hai với những trường hợp tố tụng khởi kiện trong tranh chấp môi trường không thuộc trường hợp mà nhóm nghiên cứu cho rằng nên áp dụng thời hiệu khởi kiện như đã nói ở trên thì nên tăng thời hiệu khởi kiện từ hai năm lên mười năm, như quy định áp dụng tại Trung Quốc, thiết nghĩ đó là một khoảng thời gian hợp lý cho việc tố tụng tại tòa án, với mức thời gian này thì thiệt hại thực tế của một vụ án môi trường mới có thể bộc lộ rõ ràng và có căn cứ xác thực.
Chương 3.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
3.1 Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của giải quyết tranh chấp môi trường tại Việt Nam.
Hướng tới mục đích của đề tài nghiên cứu là tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong các quy định.
Thứ nhất là: Kiến nghị hoàn thiên pháp luật về những bất cập trong quy định về phương thức giải quyết tranh chấp môi trường. Chúng ta cần phải có quy định chặt chẽ hơn về phương thức hòa giải (Khoản 3, Điều 122 – Luật bảo vệ môi trường 2005) và yêu cầu trọng tài giải quyết (Khoản 3, Điều 133 – Luật bảo vệ môi trường2005). Cụ thể với phương thức hòa giải cần phải có quy định đưa hòa giải trở thành một trình tự nhất định và bắt buộc trong khởi kiện đòi bồi thường tại tòa, những chủ thể trước khi khởi kiện tại toàn án phải thông qua hòa giải, phải có biên bản hòa giải giữa các chủ thể đã đồng ý hay chưa đồng ý giống như những quy định trong hòa giải lao động hay đất đai, ngoài ra việc quy định UBND cấp xã có thẩm quyển tiến hành hòa giải là chưa thật sự hợp lý, ở cấp xã- địa phương cần phải có thêm đại diện của cơ quan quản lý môi trường trong quá trình hòa giải. Ở phương thức yêu cầu trọng tài giải quyết nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải xác định rõ được cơ quan nào tiến hành giải quyết, đáp ứng đủ yêu cầu về chuyên môn liên quan tới môi trường. Hoàn thiện những quy định về phương thức giải quyết hòa giải và trọng tài cũng sẽ hoàn thiện quy định về chủ thể có thẩm quyền giải quyết mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra ở mục 2.2.
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường khởi kiện tại tòa án. Nhóm nghiên cứu dựa trên những đặc điểm đặc thù của môi trường cho rằng cần phải có sự phân biệt rõ hơn giữa những vụ án có tính chất môi trường với những vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác theo bộ luật dân sự, nhưng cũng không đồng ý với việc tách riêng tố tụng tranh chấp môi trường ra khỏi bộ luật dân sự và tố tụng dân sự về vì cơ bản vẫn có những đặc điểm pháp lý dân sự với tranh chấp môi trường. Tiến tới hoàn thành pháp luật môi trường nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải có sự quy định riêng về tranh chấp thành một chương, mục trong bộ luật dân sự và tố tụng dân sự, vừa thể hiện được nguyên tắc chung của tố tụng dân sự vừa cho thấy cái nhìn quan trong của pháp luật tới tranh chấp môi trường.
Thứ hai: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về những quy định trong tranh chấp môi trường tại Việt Nam. Như đã phân tích ở các mục trên chúng ta có thể thấy những bất cập cơ bản về chủ thể khởi kiện và chủ thể có thầm quyền giải quyết trong cách tranh chấp môi trường. Ở những chủ thể khởi kiện là cá nhân, tổ chức kiện đòi bồi thường thiệt hại cho chính những lợi ích của mình ,nhóm nghiên cứu đồng ý với đại đa số ý kiến về hoàn thiệt pháp luật môi trường hiện nay là việc xuất hiện quy định về “Khởi kiện tập thể” hay “Đồng nguyên đơn” sự xuất hiện quy định này có thể giúp cho việc khởi kiện trở nên rút ngọn hơn rất nhiều khi xảy ra tranh chấp môi trường, những chủ thể khởi kiện vốn dĩ thường là người dân thường có địa vị thấp hơn so với chủ thể gây thiệt hại thường là những công tý nhà máy, tập đoan lớn, việc liên kết theo quy định kiện tập thể có thể giúp nâng cao vị thế của nguyên đơn khởi kiện đồng thời giải quyết vướng mắc về tố tụng ở những tòa án có thẩm quyền, tài liệu chứng cứ có thể được liên kết với nhau chặt chẽ đầy đủ hơn.
Tiếp theo chúng ta cần phải phân công rõ ràng hơn khi xuất hiện thiệt hại trong lĩnh vực môi trường đã xâm phạm tới lợi ích công cộng, xã hội hay quốc gia theo Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì cơ quan nào có thẩm quyền trở thành nguyên đơn khởi kiện với tư cách dân sự đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường? Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu nên để thâm quyền này do UBND các cấp , Bộ tài nguyên môi trường hoặc sở Tài nguyên môi trường có trách nhiệm giúp đỡ, xác định thiệt hại và thu nhập chúng cứ chứng minh. Nhưng nhóm nghiên cứu cũng có quan điểm rõ ràng là cơ quan, tổ chức khi trở thành nguyên đơn khởi kiện cũng không được quyền thay mặt người thiệt hại (Người dân) đòi bồi thường thiệt hại cho họ. Cơ quan, tổ chức chỉ có quyền khởi kiện đòi bồi thường cho những thiệt hại cộng đồng mà cụ thể được quy định tại khoản 1 – điều 130 Luật bảo vệ môi trường 2005 “Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường”, nói cách khách là những thiệt hại chung cho cộng đồng, quan trọng hơn là những thiệt hại có thể phát sinh sau này do ô nhiễm môi trường đó.
Tiếp theo là về những chủ thể có thẩm quyền giải quyết, ngoài những chủ thể giải quyết theo phương thức hòa giải và trọng tài mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra khiến nghị ở phần hoàn thiện quy định về phương thức giải quyết tranh chấp ở trên. Nhóm nghiên cứu cho rằng thẩm quyền giải quyết tranh chấp ở tòa án theo bộ luật tố tụng dân sự là không hợp lý. Với những tranh chấp môi trường thường có tính rộng khắp và quy mô lớn, khó xác định thiệt hại thì cơ quan tòa án tại địa phương (Thường là cơ quan cấp huyện ) không có đủ nhân sự và năng lực để hoàn tất quy trình tố tụng với số lượng đơn khởi kiện và yêu cầu lớn mà đúng người đúng vi phạm. Nhóm nghiên cứu cho rằng để hoàn thiện tố tụng tòa án với tranh chấp môi trường chúng ta cần phải quy định với những vụ án mà đơn khởi kiện tới từ nhiều địa phương cùng yêu cầu một vi phạm hoặc có tính chất rộng khắp, thiệt hại lớn thì cần phải được tiến hành xét xử ở cơ quan tòa án cấp cao hơn có thể là tòa án cấp tỉnh.
Thứ ba là: Kiến nghị hoàn thiện về quy định pháp luật trong nghĩa vụ chứng minh dựa trên những căn cứ pháp luật hiện hành và những bất cập trong việc tiến hành thực tế trong các tranh chấp môi trường tiến hành tố tụng tại tòa án, nhóm nghiên cứu có những phương án kiến nghị sau đây, nhằm đóng góp hoàn thiện hơn, cũng như đảm bảo lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng, đảm bảo xét xử chính xác.
Nhóm nghiên cứu không đồng ý với việc thay đổi quy định nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án tranh chấp môi trường phải được chuyển giao cho bị đơn, tức là khi có yêu cầu của người thiệt hại thì nghĩa vụ chứng minh ban đầu, tức là phản đối yêu cầu đó phải thuộc về bên bị đơn, mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng chính bên bị đơn mới có thể có đầy đủ căn cứ vào hoạt động của mình để chứng minh mình không vi phạm gây ô nhiễm môi trường, quy định này được nhiều người cho rằng hợp lý và pháp luật Trung Quốc cũng đã áp dụng quy định này một cách khá hiệu quả.
Quan điểm của nhóm nghiên cứu cho rằng: Việc quy định như vậy sẽ làm mất đi tính đồng nhất giữa các quan hệ tố tụng với nhau, theo logic đơn giản thì ai có yêu cầu thì phải có nghĩa vụ chứng minh phù hợp hơn, nếu logic ấy không phù hợp với vụ án môi trường thì cũng không thể điều chỉnh nghĩa vụ chứng minh vào bên bị đơn được vì căn cứ họ đưa ra vẫn rất khó xác thực, đồng thời dễ dẫn tới khiêu kiện tràn lan, bất cập này theo nhóm nghiên cứu nên giải quyết như sau. Đầu tiên cần phải điều chỉnh về điều kiện khởi kiện tức là khi người dân phát hiện và chứng minh được có thiệt hại, có ô nhiễm ảnh hưởng tới mình thì vụ án chưa được đem ra xét xử nhưng cần phải có được sự tham gia của các cơ quan tài nguyên và môi trường theo luật định, sự tham gia của các cơ quan này sẽ giúp cho việc xác định hành vi và mối quan hệ nhân quả trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ cộng đồng dân sư phát hiện có thiệt hại tới nuôi trồng thủy sản qua việc ô nhiễm nguồn nước sống một cách rõ ràng như suy giảm sản lượng, nước có xuất hiện dấu hiệu lạ thì cơ quan chuyên trách về môi trường là sở hoặc bộ Tài nguyên môi trường phải có trách nhiệm xác minh. Nếu xác định có ô nhiễm từ yếu tố con người, cần phải kết hợp với cơ quan quản lý địa phương tìm ra nguyên nhân, khoanh vùng và tìm chứng cứ có thể chứng mình có hành vi gây ô nhiễm từ hoạt động nào. Tóm lại là nếu muốn chứng mình hành vi và hậu quả cần phải có sự tham gia của cơ quan chuyên môn và quản lý.
Thứ tư là: Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện qua sự nghiên cứu, áp dụng vào những vụ việc thực tế mà nhóm nghiên cứu thu nhập được, đồng thời phân tích lý luận về mặt pháp lý, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số khuyến nghị đóng góp vào việc xây dưng tốt vấn đề thời hiệu khởi trong pháp luật hiện hành về môi trường để có thể đảm bảo hơn nữa tính hiệu quả trong tranh chấp môi trường. Cần phải có sự thống nhất giữa các quy định về thời hiệu khởi kiện trong luật dân sự và tố tụng dân sự một cách chắc chắn hơn nữa đối với khởi kiện trong tranh chấp pháp luật về môi trường. Nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải xác định rõ tranh chấp môi trường về những lợi ích công cộng, những thiệt hại về nhà nước, và cả những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe do ô nhiễm, vi phạm pháp luật về môi trường phải được quy định rõ trong tố tụng dân sự là những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện, nói cách khác có thể khởi kiện không phụ thuộc vào thời gian. Với những trường hợp tố tụng khởi kiện trong tranh chấp môi trường không thuộc trường hợp mà nhóm nghiên cứu cho rằng nên áp dụng thời hiệu khởi kiện như đã nói ở trên thì nên tăng thời hiệu khởi kiện từ hai năm lên mười năm, như quy định áp dụng tại Trung Quốc, thiết nghĩ đó là một khoảng thời gian hợp lý cho việc tố tụng tại tòa án, với mức thời gian này thì thiệt hại thực tế của một vụ án môi trường mới có thể bộc lộ rõ ràng và có căn cứ xác thực.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.
Thứ nhất nâng cao sự phối hợp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan trong lĩnh vực xác định thiệt hại và thu nhập chứng cứ, tài liệu chứng mình trong cả hoạt động khởi kiện nguyên đơn là tổ chức, cá nhân đòi bồi thường vì lợi ích công cộng, hay thiệt hại của cá nhân tổ chức do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra (Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường).
Thứ hai: Nâng cao kiểm tra cac hoạt động có khả năng gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, đảm bảo những chế tài thật thích hợp với những hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Xác định rõ ràng mức thiệt hại xảy ra để có cơ chế bồi thường thích hợp. Muốn làm được điều này cần nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm và nâng cao cơ sở vật chất.
Rà soát tất cả các văn bản pháp luật quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp môi trường, để từ đó đưa ra được sự thống nhất trong các quy định mà không bị chồng chéo mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật, từ đó làm việc thực hiện giải quyết tranh chấp sẽ nhanh chóng hơn và bớt tốn kém.
Nghiên cứu rõ tính chất của các vụ tranh chấp môi trường để đưa các quy định phù hợp nhất cho các vụ tranh chấp về môi trường. Vì môi trường và các tranh chấp về môi trường có nét đặc trưng và khác với các vụ tranh chấp khác nên không thể có cùng một cách giải quyết như các tranh chấp khác được. Mà cần có quy định riêng biệt đặc thù cho loại tranh chấp này.
So sánh với các quy định pháp luật của nước ngoài để tìm ra điểm hợp lý và những điểm chưa hợp lý trong các quy định của họ, để từ đó có thể xây dựng được một văn bản pháp luật cho phù hợp với đặc điểm pháp luật của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Với đề tài nghiên cứu khoa học về “Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam”, nhóm nghiên cứu chúng tôi mong muốn những ý kiến, công sức lao động của mình có thể giúp cho việc hoàn thiện những quy định pháp luật chặt chẽ hơn. Đảm bảo tính chất của pháp luật về môi trường là bảo vệ tốt những giá trị được xem là bền vững và quan trọng với quốc gia, xử lý tranh chấp môi trường đang và sẽ còn diễn ra những vụ việc lớn hơn nữa, việc hoàn thiện về mặt pháp luật là điều vô cùng quan trọng. Mong rằng với những cách tiếp cận mới từ phái nhóm nghiên cứu, mọi người sẽ có những cách hiểu mới về những vấn đề bất cập đang còn tồn tại, tiến tới việc hoàn thiện tốt nhất về pháp luật môi trường. Xin cảm ơn!
Xem Thêm:
Post a Comment