Noi gương tiền nhân dựng cờ đại nghĩa (1)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (1)
Theo Bắc Bình Vương, Tiến Đánh Thăng Long
Vân Anh
Sống thỏa thuê tôi trở về đất Tổ
Vào Lam Sơn tìm gặp vua Lê
…………………………………
Theo Bắc Bình Vương gióng trống mở cờ
Theo Bắc Bình Vương gióng trống mở cờ
Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị
(Tôi Muốn Sống - 1962)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (Audio 1.1)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (Audio 1.2)
Noi gương tiền nhân, dựng cờ đại nghĩa (Audio 2.1)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (Audio 2.2)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (Audio 1.2)
Noi gương tiền nhân, dựng cờ đại nghĩa (Audio 2.1)
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa (Audio 2.2)
Từ đầu thế kỷ thứ 19 cho đến nay, Đông hay Tây cũng đều dùng bạo lực để trục lợi trên các sắc dân nhỏ yếu khác. Vì vật dục và lợi nhuận; thì dân Da Trắng hay Da Vàng đều không mấy khác nhau ở những điểm tham lam, tàn ác, bóc lột và áp bức kẻ yếu đuối hơn mình. Nhất là các sắc dân nhỏ yếu trên thế giới. Nhưng lộ liễu nhất phải kể đến Trung Cộng với kế sách thôn tính Nam Á Châu, Úc Châu. Một điều có thể nói chắc chắn rằng: “nếu Trung Cộng làm chủ được hai Châu Lục này, thì Âu Châu và Mỹ Châu đương nhiên sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới”, (muốn làm chủ hai châu lục này theo cái nhìn của Vân Anh, thì cũng không có gì lấy làm khó cho lắm!). Sách vở và tài liệu trong thập niên 40’s Cha, Anh chúng tôi đã ghi lại rất rõ. Điều này Vân Anh không cần phải nói nhiều ở đây.
Đế quốc Da Vàng Trung Hoa ngày nay hoàn toàn khác xa với đế quốc “Da Trắng” Liên Xô của thập niên 40’s hay trước đó. Đế Quốc Đỏ Bắc Kinh trong đầu thế kỷ 21 này lại có tham vọng nhiều hơn Đế Quốc Đỏ Liên Xô trước đây, vì họ muốn thôn tính toàn bộ Á Châu, Úc Châu, Âu Châu (và họ cũng đang thọc bàn tay nhơ nhớp của họ vào sâu trong Phi Châu). Làm chủ thiên hạ!. Trước đây Thành Cát Tư Hãn và bộ tham mưu của ông đã không thực hiện được, vì không có đủ nhân sự tài giỏi về chính trị (không phải quân sự) để tóm thâu toàn bộ Á Châu. Cuối cùng đạo quân “bách chiến, bách thắng Mông Cổ” đã 3 lần thảm bại trên mảnh đất Việt và sự thảm bại ở Việt Nam đã dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống chỉ đạo chiến tranh của Đế quốc Mông - Nguyên.
Xưa “Chiến sự” đã vậy; nay “Chính sự” lại khác. Trong tình thế năm 2012 này nếu muốn hóa giải sự xâm lăng bành trướng của đế quốc Đỏ Trung Cộng trên thế giới (xin nhắc lại: “Trên Thế Giới”), thì chỉ có một cách duy nhất là phải tiêu diệt toàn bộ tập đoàn Việt Gian Cộng sản tay sai bán nước của Bắc Kinh, chúng đang nắm quyền sinh sát tại Hà Nội hiện nay. Trớ trêu thay! mưu đồ bá chủ thế giới của Trung Cộng chỉ chấm dứt khi nào ngọn Cờ Đại Nghĩa của toàn dân Việt Nam đứng lên dành lại chủ quyền đất nước. Thiết nghĩ giới lãnh đạo của các nước nhỏ ở Á Châu nên hiểu rõ hơn những điều Vân Anh viết có thể viết ra đây.
Một điều chúng ta phải xác định cho rõ ràng là: Từ thập niên 40’s cho đến nay (2012), ở Việt Nam người ta chỉ thấy đa số những tên bất tài, vô dụng, tham lam nhưng chúng rất kiêu căng, tự mãn. Tệ hại hơn nửa là gần 40 năm trở lại đây, thì toàn bộ đất nước Việt Nam lại nằm dưới sự cầm quyền của tập đoàn Việt Gian bán nước Cộng Sản, với sự giúp sức của các ác thế lực, nhưng ngoài mặt thì lúc nào họ cũng giả nhân giả nghĩa và luôn nói đến “đạo đức” cũng như “nhân quyền”. Hơn 65 năm qua với sự tiếp tay của các tập đoàn đế quốc xâm lăng, xâm thực này, họ đã dùng cường quyền trấn áp những người Việt Nam có tâm huyết và thật sự yêu nước thương dân. Những người Việt Quốc Gia Chân Chính yêu nước có Lý Tưởng, có Phương Lược (xin nhắc lại là: Những người Việt Quốc Gia Chân Chính yêu nước có Lý Tưởng, có Phương Lược). Nhưng họ chưa có thời vận, tình hình của thế giới dù có ngã nghiêng nhưng tình thế lại chưa đủ chín mùi, để họ hội đủ cơ duyên đứng lên “Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa”.
Lịch sử đã cho thấy chiến tranh Việt Nam có nhiều giai đoạn khác nhau, nên yếu tố chiến thuật, chiến lược cũng khác nhau. Đặc biệt là chiến tranh Việt Nam không bao giờ giống với những suy tư, suy nghĩ của các “chiến lược gia” chỉ biết ngồi trong các phòng gắn máy lạnh, để “hoạch định chính sách” và “tính toán theo quyền lợi” chứ“không có nhân nghĩa”. Nếu “tính toán theo quyền lợi” chứ “không có nhân nghĩa”, thì như vậy phương Tây cho dù có ký kết với tập đoàn Việt Gian Cộng sản hàng trăm hiệp ước đi chăng nửa, thì họ cũng không thể lôi kéo tập đoàn Việt Gian Cộng Sản ra khỏi bàn tay sắt của Đế Quốc Đỏ Trung Cộng được. Vì Bắc Kinh và Hà Nội cũng biết “tính toán theo quyền lợi” lắm chứ!. Điều này đã được các giới chức của Hà Nội và Bắc Kinh xác định rất rõ ràng và rất nhiều lần. Chúng ta cứ nhìn các tên cải lương Ngụy của Hà Nội sang chầu rìa bên Bắc Kinh mỗi ngày, mỗi tuần và mỗi tháng, thì ta có thể hiểu chúng rất rõ ràng. Vân Anh chỉ nhìn các chuyến đi của chúng, thì cũng đủ hiểu sự việc sẽ xảy ra như thế nào.
Trong các bài viết trước đây vài lần Vân Anh ghi rõ rằng: “Trung Cộng đã nằm rất sâu và rất lâu trong đất nước Việt Nam; cũng như trong thành phần lãnh đạo nồng cốt của đảng Cộng Sản Việt Nam”, cho nên không bao giờ có chuyện bọn Việt Gian bán nước lại trở mặt hay xé rào phản bội ông chủ đỏ Trung Cộng của chúng để chạy theo điều chúng gọi là: “bả văn minh Tây phương”. Người viết nghĩ rằng Mỹ và phương Tây cũng đã thừa hiểu điều này, nhưng vì họ quen “tính toán theo quyền lợi”, nên các nước Tây phương vẫn nhắm mắt làm ngơ trước sự oan khổ đau thương của cả dân tộc Việt Nam đang bị cai trị bởi bàn tay hà khắc của bọn cầm quyền Cộng sản.
Thưa quý đọc giả! Dưới đây Vân Anh xin đưa ra một ví dụ nho nhỏ để quý độc giả lượng định, Đúng; Sai !. cho riêng mình.
Nước Lục Sâm Bảo (Luxembourg) chỉ vỏn vẹn có khoản 509,000 (Năm Trăm Lẻ Chín Nghìn, dân số chưa bằng một tỉnh nhỏ của Việt Nam Hiện nay) dân. Nhưng bất hạnh thay cho dân Việt! “chính quyền” “lục xâm bảo” họ đã viện lẽ thiết lập “bang giao”, mở “đại sứ quán”, ký kết “hiệp ước chiến lược” để làm nhiệm vụ “Bang Giao”,hầu giúp cho bọn Việt Gian Cộng sản tẩu tán tài sản một cách chính danh!. Như vậy thì ... “bang giao” cũng làm cho “đôi bên hay nhiều bên cùng có lợi”. Nếu phải đặt câu hỏi thì: Nước Việt Nam đã có “chiến lược” gì với các quốc gia xa xôi, lạnh lẽo nhưng chỉ có “vài trăm nghìn dân”?!. Nếu phải giao thương để “buôn bán”, thì các anh buôn những gì?! Và các anh bán những gì?!. Hỏi tức đã trả lời!.
Nhiều năm qua “người ta” vẫn thấy tập đoàn Cộng sản cũng như các tập đoàn tư bản “phương Tây”! Họ đã tự xem đất nước Việt Nam là của riêng họ. Có lẽ vì nghĩ như vậy nên họ ngang nhiên đạp lên các “công ước quốc tế” do chính họ làm ra và đã đặt bút ký kết. Họ bất chấp người dân Việt Nam và thế giới đang nghĩ gì về họ. Và người viết có thể đưa ra một “danh sách” những “nước” được gọi là “quốc gia” với dân số chỉ chừng vài trăm nghìn cho đến vài triệu như: Luxembourg, Belgium, Austria, Norway, Finland, Denmark ..v.v.. Tóm lại cũng chỉ có những kẻ gian ngoa hưởng lợi trên xương máu của hàng nhiều triệu người dân Việt Nam khốn khổ, khốn nạn. “Nhưng chuyện đời là chuyện dài lâu, nên những cuộc vui đâu có dễ thâu đêm”. Chúng ta chờ xem họ “vui thâu đêm” với nhau được bao lâu nửa!.
Năm 1175 quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn (1155 - 1227) thành lập và lãnh đạo lúc đó ông đã 20 tuổi, sau đó Mông Kha kế tiếp, đạo quân Mông Cổ chiếm gọn cả Trung Hoa, Đại Nga và Âu Châu như lấy đồ trong túi. Nhưng chỉ đến thế hệ thứ hai là Hốt Tất Liệt; thì Mông Cổ đã bị đồng hóa một cách âm thầm trong xã hội Hán tộc. Cuối thế kỷ thứ 14 nước Ðại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong, các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn lại chểnh mảng việc chính sự. Từ những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên (Mông Cổ) của Đức Thánh Trần Hưng Ðạo, Thượng Tướng Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư ở đầu thế kỷ thứ 13, đến cuối thế kỷ thứ 14, nhà Trần đã mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ bờ cõi, biên cương. Thời đó dân tình đói khổ, giặc giả nổi lên khắp nơi, Chiêm Thành là một nước nhỏ bé ở phía Nam, dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga cũng đã thừa cơ hội đang lúc nhà Trần suy vong; đem quân vượt biên giới phía Bắc tấn công cướp bóc tàn phá kinh đô Thăng Long, vào Thăng Long quân Chiêm Thành thỏa chí hãm hiếp, đốt phá và giết chóc (số lớn thanh nữ và phụ nữ bị hãm hiếp và bị giết sạch), đó là vào những năm Đinh Tỵ 1377, Mậu Ngọ 1378, Canh Thân 1380. Trong giai đoạn nhiễu nhương của đất nước, thì Lê Quý Ly xuất hiện như một “cứu tinh” để cứu vãn nhà Trần. Ông đã giúp triều đình nhà Trần củng cố lại triều chính và quân đội. Sau những trận phục kích thủy quân Ðại Việt đã giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được họa cướp bóc của Chiêm Thành ở phương Nam. Nhưng cứu tinh Quý Ly đã “hóa phép” trở thành “Hồ Ly” bức tử con cháu nhà Trần, Quý Ly là con người khôn ngoan và nhiều mưu lược cùng với quyền lực trong tay, Quý Ly cùng với người con trưởng là Hồ Nguyên Trừng đã chấm dứt cơ nghiệp nhà Trần và mở ra triều đại nhà Hồ.
Tháng hai năm Canh Thìn (1400) Lê Quý Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Thiếu Đế Án, lên ngôi, Quý Ly đổi họ Lê ra họ Hồ lấy hiệu là Thành Nguyên (Thành Nguyên để hợp với Nguyên-Minh, Thành Tổ bên Tàu). Hồ Quý Ly là một con người nhiều biệt tài, biết quyền biến và đầy tham vọng. Nhưng sau đó họ Hồ phải “dâng sổ đồ quì gối chốn biên cương”, trước tham vọng to lớn hơn của Yên Vương Lệ (Chu Lệ hay Chu Đệ được anh là Chu Nguyên Chương - Minh Thái Tổ - phong làm vua nước Yên, nên gọi Lệ là “Yên Vương Lệ”) ở phương Bắc. Yên Vương Lệ một con người có tài, đảm lược, nhiều thủ đoạn, nhưng rất tàn bạo, cùng thời gian Quý Ly cướp ngôi của cháu Ngoại là Thiếu Đế Án. Thì bên Trung Hoa, Yên Vương Lệ cũng vừa mới cướp ngôi người cháu là Minh Huệ Đế ở Kim Lăng (Nam Kinh bây giờ) Trung Hoa. Yên Vương Lệ lên ngôi năm 1402 lấy hiệu là Minh Thành Tổ.
Dưới triều đại của Minh Thành Tổ, nhà Minh được sử sách Đông, Tây ghi nhận là một triều đại cực thịnh của Trung Hoa với binh hùng tướng mạnh, những người được coi là ưu tú bậc nhất của triều đại nhà Minh như: Chu Năng, Lý An, Mã Kỳ, Trịnh Hòa, Phương Chính, Trần Hạp (Hợp), Liễu Thăng, Trương Phụ, Hoàng Phúc, Vương Thông, Trần Trí, Mã Anh, Sơn Thọ, Vương An Lão, Mộc Thạnh, Lương Minh, Lý Khánh, Thôi Tụ, Thái Phúc, Lý Lượng, Lưu Thanh ..v..v... và hàng trăm chiến tướng khác không kể hết ra đây được. Đáng kể nhất là Liễu Thăng một tướng trẻ, nhưng có tài và đầy mưu lược. Dưới sự lãnh đạo của Minh Thành Tổ, nhà Minh đã chiếm trọn Trung Hoa và tiêu diệt các nước nhỏ chung quanh thu giang sơn vễ một mối, sau đó ông quay sang mở rộng biên cương về phía Nam. Nhân có một số quan lại nhà Trần (bọn Trần Thiêm Bình) chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ (Quý Ly) cướp ngôi nhà Trần. Đây là cơ hội ngàn vàng cho Minh Thành Tổ, ông liền dựng lên chiêu bài “Diệt Hồ phù Trần”, để có cớ tung quân sang chiếm lĩnh nước Việt. Tháng Tư năm Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai hai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung đem quân đánh Đại Việt. Mở đầu cho cuộc “Chinh Nam” Hoàng Trung và Hàn Quan thua trận phải giao nộp bọn Trần Thiêm Bình và xin đường trở về Tàu. Thấy bọn Hàn Quan và Hoàng Trung thua trận trở về Minh Thành Tổ giận dữ bằng mọi cách dùng toàn lực quyết đánh để chiếm lĩnh nước Việt.
Trong lịch sử của người Trung Hoa chưa có cuộc chiến nào mà họ đã phải huy động cả hai Quốc Công, ba Thượng Thư và một đoàn Thành, Hầu, Bá như cuộc viễn chinh của nhà Minh khi chúng xâm lăng nước Việt. Cuối năm Bính Tuất Minh Thành Tổ chỉ đạo một đoàn quân hùng hậu gồm: Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm “Chinh Di” Ðại Tướng Quân, Tân Thành hầu Trương Phụ làm “Chinh Di” Hữu Phó Tướng Quân, Tây Thành Hầu Mộc Thạnh làm “Chinh Di” Tả Phó tướng quân, Phong Thành Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm Tả, Hữu Tham Tướng Quân ..v..v.., thống lĩnh hơn 80 vạn quân chia làm hai cánh tiến đánh nước ta, khi quân Minh tiến đến Long Châu thì Chu Năng bị bịnh chết, Trương Phụ lên thay. Thực chất của chiến dịch chinh “Di” Nam với hơn 800 ngàn quân (chưa kể bọn Phu binh và gia đình của chúng có thể lên đến vài trăm nghìn) dưới chiêu bài “Diệt Hồ phù Trần” của nhà Minh, là cuộc chiến tranh xâm lược đi liền với một cuộc di dân vĩ đại, mà Minh Thành Tổ muốn thôn tính phương Nam một lần cho gọn, để xóa bỏ cái “tàn dư” của nòi giống Bách Việt là “bọn Nam Di ngoan cố” luôn luôn là cái gai trước mắt và đã thách đố văn hóa với nòi Hán từ ngàn xưa đến nay. Minh Thành Tổ muốn xóa hẳn Ðại Việt để nước Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc “chinh Nam” lần nầy không phải chỉ là một cuộc viễn chinh quân sự, mà Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh “xâm lăng để đồng hóa” dân Việt qua tổng hợp về nhiều mặt: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa và Chủng tộc, chủ ý là xóa hẳn nòi giống Việt.
Trương Phụ dưới sự chỉ đạo của Yên Vương Lệ tức Minh Thành Tổ đã xua đoàn quân hơn 800 ngàn (800.000) sang xâm lăng nước Việt. Bọn quân đội và phu binh này có tác dụng xóa hẳn dòng máu của dân Việt ở phương Nam, thay đổi nếp sống và văn hóa Việt để đồng hóa dân Việt vào dân Tàu. Trên mặt trận tư tưởng với khẩu hiệu “Diệt Hồ phù Trần” của Minh Thành Tổ, đã đánh trúng vào nhược điểm của “chính quyền” Hồ Quí Ly. Chiêu (bài) “Công Tâm” nầy gây giao động mạnh mẽ trong dân chúng và chi phối tâm lý cực mạnh trong ý chí chống xâm lăng của dân quân Ðại Việt thời đó. Danh không chính thì ngôn không thuận, không có chính danh, Hồ Quí Ly mất đi hào quang lẫn đạo đức để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Đáng kể nhất là mặt trận văn hóa Hồ Quý Ly (cũng như bọn cầm quyền Cộng sản bây giờ) đã thất nhân tâm nên không được lòng dân, thuận lòng trời. Vì vậy họ Hồ đã thất bại trên mặt trận chính trị trước khi mặt trận quân sự bị sụp đổ. Đến cuối cùng cha con Hồ Quý Ly phải đem sổ đồ của quốc gia quì nơi Ải Nam Quan dâng cho Trương Phụ, mặc dù chưa có một cuộc giao tranh quân sự nào đáng kể xảy ra. Sự hèn yếu nhu nhược của họ Hồ trong công cuộc “lãnh đạo” chiến đấu chống quân xâm lược nhà Minh, một lần nửa đã đưa toàn dân Việt vào vòng nô lệ Bắc phương.
Không phải đến đời Yên Vương Lệ, Minh Thành Tổ mới nghĩ chuyện xâm lăng và xóa nhòa văn hóa Bách Việt. Trước đó nhiều thế kỷ Bắc phương đã nhiều lần muốn thôn tính và xóa hẳn các dấu vết Văn Hóa của Bách Việt, điển hình là Khổng Khâu hiệu Khổng Tử (551- 479 trước Tây lịch) ông là người san định Ngũ Kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc), từ cuối đời Xuân Thu ở Tàu để cướp văn hóa Bách Việt, họ đã tìm trăm mưu nghìn kế hòng hủy diệt văn hóa và lịch sử phương Nam, để làm ra cái mới riêng cho họ và cho phổ biến trong dân chúng. Giống Hán thì họ biên chép lại, sắp đặt lại cho có hệ thống để xóa nhòa những dấu vết cũ của giống Bách Việt gồm nhiều bộ tộc Việt như: Lạc Việt, Mân Việt, Đông Việt, U Việt, Nam Việt, (Việt, Di, Khương ..v.v..) rồi bảo rằng: “Các giống ấy chỉ là giống man di mọi rợ”. Người đại diện cho công việc ấy không ai khác hơn là Khổng Tử như đã nói ở trên, nên “học thuyết” của Khổng Tử đã trái ngược với học thuyết của Lão Tử ở phương Nam. Về chính trị thì họ Khổng chủ trương “Hưng Hoa Diệt Di”. Lối nhân nghĩa và đạo đức giả tạo của Khổng Tử là Đồng Hóa và Diệt Chủng các giống dân khác, họ dùng nhân nghĩa ở đầu môi để thay việc binh đao (“đạo nghĩa gớm cho quân lợm khẩu” - trích Đạo Trường Ngâm), lối đạo đức ăn cắp của họ Khổng thì như câu sách Nho Tàu rằng: “Thoái nhi tu đức nhi hậu miêu tộc từ suy dao, đắc đạo khả dĩ thứ nhân”, nghĩa là lùi không đánh, giả (bộ) lấy “đạo đức” mà đồng hóa họ làm dân mình. Đây là cái thủ đoạn vô cùng thâm sâu của họ Khổng, đấy cũng là một lối đế quốc về đời nhà Chu, nên thời ấy Mặc Tử mới đề xướng thuyết Kiêm Ái để chống lại lối giả nhân giả nghĩa của Khổng tử.
Tóm lại Khổng Tử cứ lập lại câu: “thuật nhi bất tác” (“Ta không sáng tác, ta chỉ học đạo của người xưa” - xem Luận Ngữ, “Ngô thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”). Như vậy đã quá rõ ràng họ Khổng chỉ đi lấy của người làm của mình nên ở đây không có gì để chúng ta lạm bàn thêm nửa.
Những việc như trên cho chúng ta thấy người Tàu đã có cái “bệnh gia truyền” là cố ý xóa nhòa văn hóa Bách Việt một cách có hệ thống từ xa xưa cho đến thời Tôn Văn (Tôn Dật Tiên) và kéo dài cho đến nay. Thế hệ của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào bây giờ cũng không đi ra ngoài sự chỉ giáo của Khổng tử, là: “tiêu diệt và đồng hóa người Việt thành người Tàu, tìm mọi cách xóa hết văn hóa của dân Việt”. Nhưng lạ thay văn hóa Bách Việt chúng ta không bao giờ bị xóa, mà ngược lại còn được lưu truyền lại hay biến hóa một cách độc đáo và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Xét cho cùng thì thông thường khi một dân tộc xâm lăng và cai trị một dân tộc khác, có cùng một vóc dáng, có cùng một màu da và dân số đông hơn, thì chỉ trong vòng 50 năm, dân tộc bị trị phải bị đồng hóa và tiêu diệt. Nhưng như chúng ta đã biết dưới sự đô hộ hà khắc và tàn bạo của người Tàu trong hơn 1000 năm đó, dân tộc Việt (Bách Việt) đã không bị diệt vong mà vẫn hiên ngang tồn tại, để đến ngày hôm nay lại có cơ hợi phục hưng và phục hoạt lại đất nước kể từ đầu thế kỷ 21 này trở đi.
Trở lại trong cảnh loạn ly của đất nước vào năm 1400. Nguyễn Trãi một thanh niên sinh ra và lớn lên trong thời Trần mạt, là dòng dõi đại quan và là con cháu triều đình nhà Trần (khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thì thân sinh ông đã ra phục vụ cho nhà Hồ). Nguyễn Trãi là một gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên ở đầu thế kỷ 15 (cũng như thời đại đầu thế kỷ thứ 21 bây giờ) ông phải chứng kiến những mất mát to lớn của dòng họ, của gia đình (cha và anh ông bị bắt và bị đày sang Tàu), của đất nước và của chính ông, ông nhìn thấy sự bế tắc, phá sản của triều đại nhà Trần trước cảnh nước mất nhà tan, trước hoàn cảnh bi thảm, đau thương của dân tộc. Ngày hôm nay hiện tình bi thảm của đất nước Việt Nam to lớn và nguy hiểm hơn nhiều so với hoàn cảnh đất nước vào năm 1400 khi nhà Minh xâm lăng Việt Nam, là những thanh niên của thời đại 2000, các bạn đang mang những ưu tư gì trong lòng. Chúng ta đã nghĩ gì và sẽ làm gì? khi ngồi đây ôn lại những dòng sử đã 600 năm qua. Hình ảnh của con người trí thức Nguyễn Trãi biết yêu dân, thương nước hy sinh tình riêng, quên tình nhà, rửa hờn cho nước như lời cha (Nguyễn Phi Khanh) đã dặn trước khi từ biệt. Hình ảnh của chàng thư sinh họ Nguyễn có làm cho chúng ta bừng tỉnh, để ta noi gương tiền nhân, mà bước ra khỏi cái “tiểu ngã” đam mê danh vọng vật chất hảo huyền hay không ?. Đất nước thật sự đã bị bọn nội thù Cộng Sản bán đứng cho ngoại bang phương Bắc. Hàng triệu những con người thanh niên biết yêu dân, thương nước các bạn đang ở đâu?. Chúng ta có nhìn thấy thảm cảnh đau thương, tủi nhục này của dân tộc Việt hay không?. Chúng ta có dám hy sinh tình nhà, để rửa hờn cho nước, quang phục tổ quốc như tiền nhân (Nguyễn Trãi) đã làm!.
Nguyễn Trãi là con ông Nguyễn Ứng Long tự là Phi Khanh nguyên quán làng Chí Ngại, huyện Phượng Sơn (Chí Linh, Hải Hưng) đã nhiều đời sinh cơ lập nghiệp ở Nhị Khê. Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (Thường Tín, Hà Đông). Sinh năm 1380 mất năm 1442, Nguyễn Trãi đậu Thái Học Sinh (tiến sĩ) năm 1400 dưới triều Hồ Hán Thương. Ông làm đến chức Ngự Sử Đài Chính Chưởng. Năm 1407, cha Nguyễn Phi Khanh và hai người con bị Trương Phụ bắt đày sang Tàu. Khi chia tay ở Ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi phải về lại Thăng Long để lo việc báo thù cho cha rửa hờn cho nước.Lúc đó Nguyễn Trãi 27 tuổi. Nguyễn Phi Khanh lấy bà Trần Thị Thái, con thứ ba của Ðại Tư Ðồ Trần Nguyên Ðán. (Trần Nguyên Ðán là một thần đồng, đậu tiến sĩ năm 14 tuổi và là dòng dõi Thượng Tướng Trần Quang Khải, con thứ của vua Trần Thái Tông, đã bốn đời làm Tể Tướng nhà Trần). Ông Nguyễn Phi Khanh là một học sinh nhà nghèo học giỏi, sử sách kể rằng: Quan tư đồ Trần Nguyên Ðán thấy Ứng Long học giỏi nên yêu mến cho về làm thầy dạy cô con gái, hai thầy trò yêu nhau mọi việc đổ bể Nguyễn Ứng Long bỏ trốn. Quan Tư Ðồ Trần Nguyên Ðán cho người đi kiếm về để gã cô con gái đang mang thai cho Nguyễn Ứng Long. Lúc đó Ứng Long mới 19 tuổi. Sau khi lấy bà Trần Thị Thái, Nguyễn Ứng Long tiếp tục học ông thi thái học sinh và đậu bảng nhãn.
Mười năm sau khi chia tay với Cha và Anh, Nguyễn Trãi trở về nhìn đất nước tan hoang, dân tình khốn khổ, lòng người ly tán không khỏi bồi hồi đau thương; quan quân triều đình thì đa số hèn yếu, giới quan lại khiếp nhược tham lam thối nát chỉ biết theo bọn nhà Minh để hưởng thụ hay an phận, đáng trách nhất là đám “trí thức văn nô cô đầu”,(tương tự như hiện tình ngày nay của nhóm người tự nhận là trí thức trong nước và hải ngoại, chỉ biết chạy theo bả vinh hoa do Cộng sản Tàu và Việt ban bố, đây là một sự thật mà không ai có thể chối cãi. Những kẻ tự nhận mình là “trí thức” ngoài kia ai có tật xin đừng giật mình). Thời gian này bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh và hơn 800 ngàn quân Minh đã thật sự cai trị dân Việt và đặt ách thống trị vô cùng hà khắc lên toàn cõi đất nước. Đa số nhân sự của triều đình Hồ Quý Ly đều bị bắt giải về Kim Lăng. Một số lớn “trí thức” đã đầu hàng theo giặc, trong đó có Trần Thúc Dao là con của đại tư đồ Trần Nguyên Đán (Dao là cậu ruột của Nguyễn Trãi), một số nhỏ đầu quân kháng chiến chống lại bọn giặc Minh, để mong khôi phục lại triều đại nhà Trần.
Năm 1420 Nguyễn Trãi và người anh em con cô cậu là Trần Nguyên Hãn tìm đến người nông dân Lê Lợi, trong giai đoạn từ năm 1407 đến 1420 đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên. Theo Phả Sử đã có trên dưới khoảng 30 phong trào kháng chiến, nhưng đều bị quân Minh đè bẹp. Đáng kể nhất là cuộc giao chiến với nhà Minh trong trận Bô Cô, được mô tả là cuộc giao tranh ác liệt nhất, trong trận này dưới sự chỉ huy của Giản Định Đế quân Đại Việt đã giết được Đề Hình Án Sát Sứ Đại Tướng Lữ Nghị, Tây Bình Hầu Mộc Thạnh phải bỏ quân sĩ chạy về thành Cổ Lộng. Cũng trong trận đánh ác liệt này tướng Đặng Dung suýt bắt sống được Tân Thành Hầu Trương Phụ, nhưng vì Đặng Dung không biết mặt Trương Phụ nên y cũng đã chạy thoát về thành Cổ Lộng. (“Oai Tuyên Đức bạt theo hồn Trương Phụ” - Tuyên Đức tức Minh Thành Tổ - trích Đạo Trường Ngâm).
Tuy khắp nơi có những trận đánh ác liệt như trên vừa kể, nhưng Nguyễn Trãi vẫn nằm im trước các phong trào nổi dậy của dân quân nhà Trần và nhóm sĩ phu yêu nước. Ông im lặng để quan sát thời cuộc và chờ cơ hội. Thật ra trong 10 năm này (1407-1420), nếu không nhờ Hoàng Phúc? che chở thì Nguyễn Trãi khó lòng sống trong thành Đông Quan (Thăng Long) mà không bị Trương Phụ hạch tội. Đó cũng là lý do sau này khi cùng Lê Lợi kháng chiến thành công, Nguyễn Trãi bắt được Hoàng Phúc, vì biết Hoàng Phúc là người có tài và ông đã đối xử tử tế với Hoàng Phúc, một kẻ thù nhưng nay đã sa cơ, ông xin vua Lê tha cho vì không nỡ giết. Đây là một cử chỉ vô cùng cao thượng của giới sĩ phu Việt. Cuối năm 1420 Nguyễn Trãi và Trần Nguyễn Hãn tìm gặp Lê Lợi, một hào trưởng vô danh đã lập căn cứ địa ở Chí Linh chống giặc. Thái độ “nằm im” của Nguyễn Trãi là tu luyện để tự tạo cho mình một khả năng hiểu biết, tự tìm học để trở thành một người hữu dụng, trong công cuộc kháng chiến Nguyễn Trãi đã dành thời giờ suy nghĩ về một chiến thuật, chiến lược mới để cứu nước. Nguyễn Trãi không tạo ra “Bình Ngô Sách” như nhiều “sử gia” lầm nghĩ. Mà Bình Ngô sách là kết tinh của nhiều bộ óc lãnh đạo kháng Minh thời đó, trong đó phải kể đến Lê Lợi lại là nhân vật chính yếu để hình thành “Bình Ngô Sách”. Vì Lê Lợi là lãnh đạo và là lãnh tụ của công cuộc khởi nghĩa. Mong rằng lịch sử sau này phải được viết lại một cách khách quan hơn.
Thật ra trước khi Nguyễn Trãi vào Lam Sơn tìm gặp Lê Lợi thì cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã hình thành được hai năm trước đó (1408), chính Lê Lợi là người đã hoạch định mọi kế sách cũng như chiến thuật chiến lược trong công cuộc kháng Minh. Cũng có một vài “nhà văn - học giả” gần đây cho rằng: “Lê Lợi là một người Mường thân hình lông lá, mũi quặp như mũi két, tính tình hung bạo”, đây chắc chắn là lối lập luận của những người có cái nhìn hời hợt về lịch sử, nếu không muốn nói là: Họ lợi dụng danh nghĩa “sử gia hay nhà văn” để đánh đổ những bậc Anh Hùng trong giòng sử Việt đã đóng góp công nghiệp vĩ đại cho đất nước Việt. Cũng có thể các “sử gia hay nhà văn” trên đây họ là những kẻ đang mang trong người cái “tâm lý miệt thị Tổ Tiên” chăng?. Nếu chúng ta “đặt câu hỏi”, thì như vậy gần 600 năm qua cả một dân tộc Việt Nam (dân số ngày nay là gần 90 triệu) lại đúc tượng làm đền để tôn thờ “… một người Mường thân hình lông lá, mũi quặp như mũi két, tính tình hung bạo” chăng?!. Một điều người viết muốn nhắc cho các “nhà văn - học giả” nói trên rằng: Bộ Luật Hồng Đức của triều đại nhà Lê đã đi trước bản hiến chương “Nhân Quyền” của Liên Hiệp Quốc (năm 1948) hơn 500 năm (quý đọc giả nên tìm đọc bộ Luật Hồng Đức và hiến chương Nhân Quyền năm 1948 để so sánh thì sẽ rõ hơn). Đây là một sự thật không ai có thể phủ nhận được. Một giả dụ nửa, “nếu” vua Lê Lợi là một người …“Mường thân hình long lá …” như vài “sử gia - nhà văn” họ đã nói, thì từ đó đến nay trong dòng sử Việt (và cả thế giới) đã có mấy ai tạo được những chiến công hiển hách như vậy. Từ hai bàn tay trắng trước binh hùng tướng mạnh của nhà Minh đã cai trị nước Việt gần 20 năm. Vua Lê Lợi đã đánh bại được một triều đại được coi là cường thịnh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Vua Lê đã gây dựng lại cơ đồ, làm chủ đất nước, giải phóng dân tộc, dành lại chủ quyền cho nước Việt, cứu dân ra khỏi cảnh lầm than, trong khi đó con cháu nhà Trần như: Giản Định Đế Trần Ngỗi, Trần Quý Khách, hay như Trần Thúc Dao đã không đủ mưu lược và tài trí để lãnh đạo cuộc kháng Minh đi đến thành công.
[{Một điều quan trọng nửa mà từ xưa đến nay Vân Anh chưa thấy các sử gia nào nói đến việc vua Lê đã bắt sống gần như trọn “Bộ Tham Mưu Viễn Chinh” của nhà Minh với khoảng 30 Đại Tướng từ bọn Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Hoàng Phúc, Vương Thông, Mã Kỳ, Phương Chính ..v.v… và tiêu diệt khoảng 70 Đại Tướng và Chiến Tướng như bọn Liễu Thăng, Trần Trí, Mã An, Sơn Thọ, Lý An, Lý Khánh, Thôi Tụ ..v.v.. Cũng nên nhắc lại ở đây Liễu Thăng một Đại Tướng và là một danh tướng bậc nhất của nhà Minh thời đó (đại tướng là người ngồi trong trướng mà hiểu việc ba quân, khác với chiến tướng là kẻ chỉ biết xông tên đụt pháo để chiếm thành đoạt lũy). Sử Tàu ghi rằng: {“khi Minh Thành Tổ nghe tin Liễu Thăng tử trận “Ngài” đã té xuống ngai (ghế), mặt tái như tàu lá, được kẻ tả hữu đỡ dậy, một hồi lâu “ngài” mới tỉnh dậy và khóc không thành tiếng”}. Như vậy có thể nói rằng: Liễu Thăng được Minh Thành Tổ quý trọng vào bậc nhất công thần của nhà Minh. Nên dù còn trẻ nhưng Liễu Thăng đã được vua Minh ban cho chức “Hầu” (An Viễn Hầu - một “tước” mà không có bất cứ tướng trẻ tuổi nào được Minh Thành Tổ phong cho).
Chuyện nhà Lê đã bức tử Trần Nguyên Hãn và (sau Lê Lợi) đã giết hại công thần lại là một bí ẩn của lịch sử, chứ không đơn giản như chuyện các bà “Cung Phi” tranh giành quyền lợi, rồi đi đến việc giết hại các quốc phụ của nhà Lê. Không ai có thể bôi bẩn được lịch sử, nhất là bọn Việt Gian, và người Tàu hàng ngàn năm qua cũng mong muốn làm sao xóa bỏ lịch sử Việt, hay chúng cố ý viết cho sai lạc đi để dễ dàng đồng hóa chúng ta, nhưng chúng đã thất bại. Mong rằng các nhà làm sử bây giờ và sau này, phải bỏ công tìm hiểu các Gia Phả Sử, các Chính Sử để làm sáng tỏ sự kiện lịch sử này, để con cháu chúng ta đời sau không hiểu lịch sử một cách sai lạc. Vì lịch sử là cuốn gia phả của nước nòi, không biết thì chúng sẽ không thương cũng như không trân quý. Không biết, không thương, không trân quý thì chúng sẽ không đem máu xương ra để gìn giữ một khi đất nước có biến động. Nước Việt chúng ta đã có một giòng lịch sử (nếu không nuốn nói là) hơn 7,000 năm, mọi con dân Việt đều có trách nhiệm phải gìn giữ. Nước Việt không phải là của riêng hay công cụ để phục vụ cho quyền lợi của đảng Cộng sản. Vân Anh đã nhiều lần viết rằng: “muôn chế độ chỉ là cái áo, nếu không hợp thời thì Phải Thay Đổi”. Chúng ta không nên tham lam để cho hại bất cập lợi, phải biết vứt bỏ đúng lúc sự suy tàn thoái hóa của “đảng” để làm thăng hoa xã hội mình đang sống, phải mạnh dạn đứng lên chống lại sự nghèo đói, bần cùng, có thể diệt vong cả dân tộc.
Lê Hoa Phả sử ghi: Lê Lợi sinh năm 1385, ông rất am tường về binh thư, nhưng vì thời, thế ông phải ẩn mình nơi thôn dã chỉ để mưu cầu việc đánh đuổi nhà Minh, dành độc lập cho tổ quốc (có lẽ vì vậy nên sau này người ta cho ông là gốc người Mường chăng?). Thời còn trẻ ông thường nói với chúng bạn rằng: “làm người sinh ra trong thời buổi loạn ly, đất nước đang bị nội thù và ngoại xâm dày xéo, phận làm trai phải đứng ra đưa vai gánh lấy việc nước, lập công danh cho đời sau, chứ tại sao phải đem thân làm tôi cho người”. Năm 1418 khi thấy thời cơ đã đến ông cùng 18 đồng chí Dựng Cờ Đại Nghĩa (Hội thề Lũng Nhai, lúc đó vua Lê đúng 33 tuổi), sau này vào năm 1420 mới có thêm Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn (Nguyễn Trãi đứng vào hàng thứ 24 trong 29 người khai quốc công thần nhà Lê) và một số anh hùng thảo dã khác nửa. Theo “Lê Hoa Phả Sử” ghi lại rằng: Lê Hữu Dũng (có tên khác là Lê Chương?), Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tìm vào Lam Sơn gặp Lê Lợi lại nhằm ngày giổ kỵ họ Lê, Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi vừa cắt thịt vừa ăn, ông than với Trần Nguyên Hãn rằng: “Lê Lợi không có tướng tinh, thần khí của một người lãnh tụ”, thất vọng Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn trở về, Lê Hữu Dũng (*) ở lại (Hữu Dũng tạo rất nhiều kỳ công trong cuộc kháng Minh sau Dũng làm đến Đại Tướng, trong một cuộc giao tranh với quân Minh, ông bị thương khi đôn quân tấn công thành Cổ Lộng?). Trở lại Lam Sơn lần thứ nhì, Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư, thần khí lần này lại khác, lúc đó Nguyễn Trãi mới vào ra mắt. Vậy! “binh thư” mà vua Lê Lợi đã nghiền ngẫm có còn tồn tại đến ngày nay chăng? và ai là người đã viết ra những binh thư đó?.
Thời “xưa” các sách Binh Thư là những tài liệu bí mật về quân sự cũng như về nhiều lãnh vực khác, trong các sách binh thư đều ghi rõ hình thể sông núi, ao hồ, đầm trạch, đồi gò, cao điểm, hạ lưu, mạch rạch, rừng rậm. v..v... Vậy khi Nguyễn Trãi vào Chí Linh thấy “Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư”, thì “binh thư” đó là các tài liệu bí mật về chính trị, quân sự, văn hóa như đã nói trên. Khi đem quân xâm lăng nước Việt Hoàng Phúc cũng đã mang theo cuốn binh thư do chính Cao Biền đã viết ra khoảng năm 865. “Cuốn Cao Biền Kiểu Tự Tấu Thư” là một tấm bản đồ chi chít ghi rõ nhân văn, địa hình, địa vật, của nước ta.
Ở đây có một điều quan trọng cần phải nói thêm là: Các triều đại trước như Đinh, tiền Lê, Lý, Trần đã chiến thắng giặc ngoại xâm phương Bắc, khi các tiền triều đã hội đủ 3 yếu tố; Quân, Quốc và Quyền để đánh bại kẻ thù. Nhưng điểm quan trọng là kẻ thù chưa kiểm soát và làm chủ hoàn toàn đất nước. Trong thời điểm khi vua Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, thì nhà Minh cùng bọn nội gián đã thiết lập một hệ thống quân đội, an ninh, tình báo dầy đặc chằng chịt (tương tự như tình hình hôm nay 2012 dưới sự thống trị của bọn nội thù Cộng sản và bọn ngoại xâm phương Bắc cùng với sự tiếp tay của nhiều ác thế lực, chúng đã ngang nhiên đạp trên luật pháp quốc tế chiếm lĩnh, thống trị toàn cõi đất nước Việt Nam; tính đến nay đã gần 40 năm - 1975 - 2012. Vậy làm sao để toàn dân Việt đứng lên đánh bại kẻ thù thì đây là một tuyệt đối bí mật về nhiều mặt); thống trị trên toàn cõi nước Việt hơn trên 10 năm, vua Lê đã khởi nghĩa với hai bàn tay trắng, đương nhiên là ông không có những yếu tố Quân đội, Quốc gia và chính Quyền để tạo lực. Nhưng với khối óc đầy mưu lược của vua Lê, cùng sự quyết tâm của bộ tham mưu Đức Vua Lê Lợi đã đánh bại triều đại nhà Minh với binh hùng tướng mạnh, cùng một đoàn Thành, Hầu, Bá (quý bạn đọc giả trẻ ngày nay nên nhớ rằng với chức tước Thành, Hầu, Bá nói trên là các phẩm trật cao nhất của triều đại nhà Minh vào thời đó) và hàng trăm chiến tướng chỉ biết chiến thắng chứ chưa bao giờ biết chiến bại. Thiết nghĩ Vua Lê là một Thần Nhân với mưu thần chước quỷ mới tạo nên những chiến công hiển hách như vậy. Đức Vua Lê Lợi là vị anh hùng có một không hai trong lịch sử nước nhà. Mong rằng các sử gia sau này nên có một cái nhìn đứng đắn với lịch sử, khi nghiên cứu lịch sử để viết về triều đại Hậu Lê, thì phải có cái nhìn xác thực hơn về con người thật của Đức Vua Lê Lợi.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi được xây dựng trên quan điểm đúng đắn về “chiến tranh chính trị và gián điệp”. Vua Lê đã đạt được “chính nghĩa” để đương đầu với khẩu hiệu “phù Trần” bịp bợm của Minh Thành Tổ, ông dùng “chính trị nhân ái” (nghĩa đúng nhất của chính trị - “nhân sinh chính vi đại”) để công tâm giặc. Song song với thế trận công tâm này, vua Lê cũng đề cao ý niệm nhân tính của Đạo Sống Việt bằng cách đưa ý niệm nầy vào thực tế chính trị. Theo ông, đối tượng của chính trị là nhân dân chứ không phải là Đảng Phái hay Dòng Họ. Vai trò của những người lãnh đạo là phải mưu cầu làm sao cho xã hội ổn định, người dân sống an lạc, công bằng và hạnh phúc. Do đó; đạo sống Việt chân chính (“lý giả, lễ giả”) không nằm ở khẩu hiệu rỗng tuyếch, ở lối tuyên truyền bịp bợm, mà nó nằm ở chổ phải thực hiện được những cái mà người lãnh đạo đã đề ra. Việc làm phải có những “phương châm, phương thức và phương pháp” làm cho mỗi gia đình người dân được hạnh phúc, ấm no xã hội hài hòa. Vua Lê còn đề ra những tiêu chuẩn bắt buộc những người lãnh đạo phải chứng minh được khả năng đem lại cơm no áo ấm cho người dân một cách cụ thể, chứ không phải chỉ biết hứa hẹn (như thiên đường xã hội chủ nghĩa mà “cụ Hồ” và “cụ Mác” - Marx - đã hứa hẹn). Tiêu chuẩn đó ngày nay được gọi là “bình sản thủy chuẩn”, song vào đó ông cũng đề ra những kế hoạch để phát triển quốc gia sau khi chiến tranh chấm dứt.
Trong bất cứ thời điểm nào của lịch sử, nếu phải đi vào chiến tranh; thì lấy chiến tranh để giải quyết chiến tranh, hầu đem lại một nền hòa bình lâu dài cho đất nước và cho dân tộc, thì đấy là việc làm của những người chân chính. Vì mục đích thánh thiện của chiến tranh là hòa bình, chứ không phải dùng chiến tranh để xây dựng một chế độ tàn bạo hơn, độc ác hơn, ghê tởm hơn. Khi một chế độ độc ác, ghê tởm và tàn bạo như chế độ Cộng sản Hà Nội hiện nay được dựng lên bằng xương và máu của hàng triệu lương dân và chiến sĩ để thay thế chính quyền cũ (nên nhớ là “chính quyền” không phải tà quyền), thì ngay lập tức những xương máu mà các chiến sĩ và người dân đã hy sinh trong cuộc chiến đều mất giá trị và trở nên vô nghĩa, để ngày nay như mọi người Việt Nam đều biết là cuộc chiến đó đã trở nên Không Có Chính Danh, Chính Nghĩa. Nên khi tập đoàn Cộng sản Việt Nam đã nhân danh “Đảng” hay bất cứ một lý tưởng “vĩ đại” nào để mong xóa bỏ văn hóa dân tộc, để bán đất nhượng biển, để dâng tài nguyên quốc gia cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, để đàn áp người dân, để bóc bột người dân, để làm đời sống người dân cơ cực, lo sợ bất ổn định, để làm cho dân tộc điêu linh cùng khổ. Thì rõ ràng tập đoàn Cộng sản Việt Nam là một tập đoàn tội ác và lịch sử bây giờ cũng như sau này khó có thể tha thứ hay bỏ qua.
Những pho sách như: Vạn Kiếp Bí Truyền, Vạn Pháp Quy Tông hay Binh Thư Yếu Lược .v..v... của đức Thánh Trần Hưng Đạo là những binh thư sách lược quốc phòng của Đại Việt và của triều đại nhà Trần. Các bộ sách nầy là biểu tượng của sự “Văn Trị Võ Công” của một triều đại sáng chói trong dòng sử Việt, những binh thư này đã giúp dân tộc Đại Việt chiến thắng đoàn quân “bách chiến bách thắng” Nguyên - Mông Cổ vào thế kỷ 13. Nhưng đến thời điểm 2012 này, biểu tượng văn trị võ công hay sách lược quốc phòng của tổ tiên, có còn “linh nghiệm” để bảo vệ đất nước trước sự xâm lăng và xâm thực của bọn nội xâm Cộng sản, và bọn ngoại thù Trung Cộng phương Bắc.
Quá khứ, tiền nhân Việt đã thể hiện tinh thần Vạn Thắng oai hùng lẫm liệt!. Nhưng ngày nay có lẽ vì sự hèn yếu và nhu nhược của chúng ta, nên chúng ta chưa thể chiến thắng bọn nội xâm; ngoại thù?!. Thế thì chúng ta phải mỗi người tự mình nhìn lại mình, tự vấn chính lương tâm mình để tự phản tỉnh và từ đó tìm một hướng đi lên, một hướng đi chân chính trong cuộc chiến đấu chống bọn ngoại xâm phương Bắc và bọn nội thù Cộng sản. Hiện nay chúng ta phải đương đầu với một trận giặc mới: Trận giặc chủ thuyết, trận giặc văn hóa, trận giặc chống lại sự bần cùng diệt vong của dân tộc Việt, mà những kẻ gây ra là tập đoàn Cộng sản điên rồ mù quáng, chúng đã mượn danh nghĩa tổ quốc, dân tộc, nhân dân để thỏa mãn tham vọng cho riêng chúng. Chúng đã mượn oai linh của tổ quốc để mưu cầu bả danh lợi cho đảng phái, cá nhân, cho giòng họ chúng, quá khứ chúng gian manh khéo léo đầu cơ lòng yêu nước của đại đa số tầng lớp thanh niên đầy nhiệt huyết. Bọn chúng không ai khác hơn là một lũ vong bản, vong ân, vong nghĩa, vong tình. Vậy muốn chiến thắng bọn người gian manh này, muốn thắng trận chiến cuối cùng này, chúng ta phải đồng loạt công địch ở tất cả mọi lãnh vực: Từ Quân sự, Chính trị, Kinh tế, đến Văn hóa, Xã hội ..v.v..
Câu nói: “Rửa hờn cho cha, trả thù cho nước” đã nằm trong tâm hồn của người thanh niên Nguyễn Trãi trong suốt mười năm. Ông “nuôi chí phục thù”; “Bình Ngô Sách” có thể đây chỉ là lời thêu dệt của Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho có vẻ huyền thoại hóa vấn đề, để Lê Lợi dễ bề ứng biến trong công cuộc cách mạng chống nhà Minh sau này, (ví như viết “bằng mỡ” trên lá cây 8 chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”), nên “Bình Ngô Sách” có thể chỉ là cái tên gọi, nhưng thật ra sách lược dùng để vây đánh nhà Minh và làm cho cuộc kháng chiến của vua Lê đi đến thành công là một bộ “Binh Thư” khác, hiện nay vẫn còn!(xin nói thêm ở đây là Cộng Sản Hà Nội hiện nay không đủ tài đức lẫn trí tuệ để giữ bộ binh thư này). Do đó “Bình Ngô Sách” ta phải hiểu đây là cuốn “Lê Lợi Binh Thư” một nối tiếp của sách lược Vạn Kiếp Bí Truyền, Vạn Pháp Quy Tông, hay Binh Thư Yếu Lược và nhiều bộ (pho) sách khác cũng là các chiến lược quốc phòng muôn đời của dân tộc Việt. Hơn nửa Nguyễn Trãi vì biết cơ nghiệp và vận hạn nhà Trần đã hết, nhà Trần đang suy vong, vực dậy một chế độ đã tan rã không phải là “lý tưởng” có thể giải quyết những bế tắc của đất nước (các đảng viên Cộng sản ngày nay nên hiểu rằng: Cứu nước không đồng nghĩa trung thành với một chế độ tàn bạo đã thối nát và trên đà tan rã như hiện nay). Điểm nửa ông đã hiểu được thời biết được thế, nhìn được cơ, biết người, biết ta, biết rõ lòng dân Việt đang sôi sục căm thù bọn nội xâm ngoại thù đang âm mưu cướp nước Việt, nên ông quyết định tìm đến Lê Lợi một con người thảo dã nơi núi rừng Lam Sơn.
Nguyễn Trãi đã “Noi Gương Tiền Nhân”, ông đặt dân tộc lên hàng đầu, ông xem việc nhà Trần mất ngôi không phải là chuyện quan trọng, ông hiểu rằng: ... “Muôn chế độ chỉ là cái áo, nếu không hợp thời thì phải thay đổi”. Trong giòng lịch sử nước nhà từ xưa đến nay đã trải qua biết bao chế độ, với ông (ái quốc) dân tộc và tổ quốc mới là điều quan trọng. Mặc dù Nguyễn Trãi là hậu duệ của nhà Trần, nhưng với khẩu hiệu “yêu nước là yêu xã hội ... nhà Trần” không còn đúng nữa, người xưa có câu: “Trung Quân, Ái Quốc”. Nhưng theo người viết thì, hiện tình đất nước trước mặt, trung quân hay là “trung với đảng” đã không đồng nghĩa với ái quốc (“yêu xã hội chủ nghĩa”). Bởi “chế độ này tội ác chất từng pho” nên xã hội (chủ nghĩa) cần phải có một cuộc cách mạng bạo lực đúng nghĩa của nó để thay đổi, thay đổi để hợp với lòng Trời, lòng người, hợp với thời đại. Xã hội Việt Nam hiện nay phải thay đổi, để Tổ quốc Việt Nam được mãi mãi tươi đẹp.
Quan điểm ái quốc, nhưng “Không Trung Quân” trên đây có thể đúng với quan điểm của Nguyễn Phi Khanh như ông đã thực hiện và ông đã dặn lại cho Nguyễn Trãi trước khi chia tay nhau nơi biên ải; cũng như của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông cho một số học trò và cho chính con rễ của ông là Nguyễn Dao ra giúp nhà Lê, vì có lẽ ông biết rằng nhà Lê sẽ Trung Hưng!. Chúng ta hãy nhìn và xem xét thật kỹ hai nhân vật tiêu biểu của lịch sử nói trên, trong giai đoạn nhiễu nhương của đất nước để cùng suy ngẫm, cũng như có quyết định đứng đắn cho chính mình và cho gia đình con cháu mình. Người viết nghĩ rằng một số không nhỏ các đảng viên Cộng sản trong nước và hải ngoại hiện nay đã biết thức thời, hiểu mình, hiểu người, hiểu được thân phận của chính họ trong cái xã hội duy vật chất, thiếu vắng tình người này, và vì hiểu như vậy nên họ phải cùng nhau chính họ đứng lên phá bỏ mọi ràng buộc của “đảng tính”, để mạnh dạn đi vào cánh cửa lớn của lịch sử đang chờ đón. Chỉ có chúng ta mới hiểu nỗi thống khổ của dân tộc chúng ta, chỉ có chúng ta mới biết yêu thương đất nước chúng ta, cứu lấy đất nước cũng là trách nhiệm của mỗi người con dân Việt vậy!. Trải dài trong lịch sử Việt đã có biết bao anh hùng ái quốc nhưng Không trung quân như đã nói trên. Nhưng ở đây chỉ đưa ra hai nhân vật tiêu biểu để chúng ta cùng suy nghiệm.
a). Nguyễn Phi Khanh: Khi Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh mặc dầu là rễ của quan đại tư đồ Trần Nguyên Đán, nhưng Phi Khanh nhanh chóng ra phục vụ nhà Hồ. Ông chia tay với triều đình nhà Trần không luyến tiếc, ông không coi trọng việc Hồ Quý Ly cướp ngôi vua nhà Trần là điều trọng đại, ông xem việc cứu nước là một điều tối quan trọng để ông dấn thân, hay nói đúng hơn Nguyễn Trãi đã giải quyết được tâm lý của một thanh niên trước cái bế tắc của đất nước. Đó là phải cắt dứt cho được cái bệnh trung quân (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung) để chỉ còn lại ái quốc (tổ quốc phải đặt lên hàng đầu) trong công cuộc giữ nước và cứu nước. Nguyễn Trãi đã bước ra khỏi cái bệnh trung quân của thời kỳ “đại gia, hay là đảng toàn trị” để nhìn về phía tương lai của dân tộc. Khi ông hiểu rằng một triều đại đã đến lúc phải cáo chung ví như thân thể con người khi đã chết, thì không còn phương cách nào khác có thể làm cho nó sống dậy, và lại càng không thể coi đó là cứu cánh cho công cuộc cứu nước được nữa. Ông coi sự sống còn của tổ quốc là điều tối quan trọng hơn là sự tồn vong của một triều đại. Dù đó là triều đại của giòng tộc ông. Ông không còn trung quân nhưng ông đã ái quốc, ông đã tách chế độ ra khỏi dân tộc. Ông phủ nhận quan niệm “yêu nước là yêu xã hội ... nhà Trần”. Chính điều nầy đã đánh dấu sự trưởng thành về Lý Tưởng Dân Tộc của Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, khi cả hai đều là hậu duệ chính thống của nhà Trần, lý tưởng dân tộc và tình yêu nước bao la xanh thẩm đã thúc đẩy anh em ông “Noi gương Tiền nhân, Dựng cờ Đại nghĩa”, một con đường mới, một sinh lộ mới. Đó là đường “vào Lam Sơn tìm gặp Vua Lê”. Chỉ có Lam Sơn mới làm cho đất nước hồi sinh, vào thời điểm 2012 này là thời điểm hấp hối tang thương của đất nước, có phải “Lam Sơn” trở thành“Hoa Địa Cách Mạng” cho cả dân tộc Việt. “Rồi đây khi đất trời gió nổi”…, rừng núi “Lam Sơn” sẽ làm cho “sử hồn sống lại”. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đã nghe theo lời dặn của Nguyễn Phi Khanh và họ đã thành công.
b). Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông sinh năm 1491 đậu Trạng Nguyênđời Mạc Đăng Doanh (1530-1540), làm quan đến Lại Bộ Thị Lang kiêm Đông Các Đại Học Sĩ, sau này nhà Mạc phong cho ông thêm tước Trình Quốc Công (nên người đời sau thường gọi ông là “Trạng Trình”). Trong thời Nam-Bắc triều ông giúp chúa Trịnh Kiểm (phò vua Lê) và cũng giúp luôn cả Nguyễn Hoàng vào cuối năm Mậu Ngọ (1558). Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đã nhìn được cái thế “tam liệt, tam phân”. Thế “Tam Liệt, Tam Phân” với nhà Mạc (1527-1667), Nam Bắc Triều (1533-1592), Nam Bắc Phân Tranh (1600-1786). Ở giai đoạn đó có nhà Mạc, có vua Lê chúa Trịnh (Cụ Trạng đã cho Phùng Khắc Khoan giúp họ Trịnh), có nhà Nguyễn (Cụ Trạng cũng giúp Nguyễn Hoàng) với câu “Sấm” “Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” (sau này vua Tự Đức đã đổi chữ khả dĩ thành ra vạn đại), cũng chính câu sấm trên ông đã giúp Nguyễn Hoàng dựng nên sự nghiệp sau này (đây gọi là thế “Tam Liệt, Tam Phân Việt Nam” ở vào thời đó. Sau khi nhà Lê trung hưng, trong lịch sử Việt duy nhất chỉ có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bị đục tên ra khỏi bia (đá) Tiến Sĩ, vì ông đã ra giúp nhà Mạc).
Tóm lại Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đặt lý tưởng dân tộc, quyền lợi đất nước lên cao hơn quyền lợi của giới lãnh đạo (vua-chúa), của giới cầm quyền, bởi vì ông hiểu được thời biết được thế, ông đã mạnh dạn bước ra khỏi sự ràng buộc của “Trung Quân”, nên ông chỉ còn lại quan điểm “Ái Quốc”, ông đã giúp cho tất cả những ai đang làm lợi cho đất nước. Chỉ có những kẻ tuấn kiệt mới có thể thức thời để “tri mệnh”, nên sách mới có câu: “tri mệnh thức thời duy tuấn kiệt”, khi sống trong thời loạn người ta hiểu được giá trị của vua- chúa, vậy cái hay nhất của kẻ sĩ là biết tách rời lý tưởng trung với vua ra khỏi cái tình của nước, để chỉ còn lại cái hiếu với dân (tộc) (“trai trung hiếu, gái tiết hạnh” - Ca Dao). Bởi vì: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, tiền nhân ta đưa dân (Nhân) lên hàng đầu, vì nếu không có dân thì cũng chẳng có vua, nên dân thì vạn đại, nhưng vua, quan, hôn quân, bạo chúa hay các chế độ “chính quyền”; hoặc cầm quyền điêu ngoa gian ác cũng chỉ là nhất thời.
Vậy một chính thể cho dù có tốt, có “hoàn hảo” đến đâu cũng phải thay đổi theo tiến trình nhận thức hướng thượng, mỗi giai đoạn đi qua thì lại có mỗi thay đổi, nhưng dân tộc thì vĩnh viễn tồn tại, nên giá trị trường tồn phải hơn thời gian ngắn ngủi. Một chính thể như trên có nói “có tốt có hoàn hảo”, nhưng không quan trọng bằng sự trường tồn của dân tộc. Vậy! Người lãnh đạo hay một nhóm người đại diện (chính thể, chính quyền) cho một thể chế, không quan trọng bằng giòng sống của cả một dân tộc. Như vậy những người chỉ biết có “trung thành” với (vua -quan) chế độ mà tiếc thay chế độ (như chế độ Cộng sản) ấy đã quá thối nát và tàn rửa. Thì đó chỉ là loại người có trí óc kém cõi, họ không thể nhìn được “thời”, không biết được “thế”, thì làm sao hiểu được “cơ”, và “thời, thế, cơ” là 3 yếu tố chính để cho người xưa và nay xây dựng cơ nghiệp đến thành công. Họ đã “cận thị” nên không thể nhìn được xa, họ tự chọn cho họ cái tôi nhỏ nhoi, ti tiện mà bỏ đi cái nghĩa lớn của đất nước của dân tộc, đến khi họ chợt hiểu ra thì dẫu có hối tiếc cũng đã muộn màng.
Trong giai đoạn chống quân Minh 1407 - 1418 có ba thành phần ở đầu thế kỷ thứ 15, thành phần thứ nhất là thành phần chọn cho mình chổ đứng trong hàng ngũ quân xâm lăng. Thành phần nầy có thể họ là những người nhẹ dạ tin tưởng vào khẩu hiểu “phù Trần” của nhà Minh nên đã ra hợp tác với chế độ, những người nầy đại biểu cho nhóm người “cận thị” với sự hiểu biết hạn hẹp, vì khi hợp tác với giặc họ quên đi cái thảm họa mất nước. Họ sẳn sàng rước về cho dân tộc nhiều thảm họa nguy hiểm hơn là cái “thảm họa” thay đổi thể chế chính trị. Thành phần thứ hai là những người không có lý tưởng, thấy cái tuyệt vọng trong việc giành độc lập cho đất nước nên đành đứng vào hàng ngũ giặc để mong tìm bả vinh hoa cho cá nhân và gia đình. Hai thành phần trên đều đứng về phía giặc hoặc làm công cụ và tay sai cho giặc. Họ đã góp tay, góp sức với giặc, tiêu diệt văn hóa và sức sống dân tộc họ, một cách trực tiếp và gián tiếp họ đã bẻ gảy gần 30 cuộc cách mạng của dân tộc Việt chống lại sự xâm lăng cai trị của nhà Minh. Thành phần thứ Ba còn lại là những thanh niên có thể nói họ là những người ưu tú của đất nước như: Lê Hữu Dũng, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Phạm Văn Xảo, Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Lê Xí, Lê Ngân, Lê Sát, Lê Bật ..v.v... chính họ đã viết lên những trang sử sáng chói để lưu lại cho đời sau chiêm ngưỡng.
Ngày nay khi đọc lại những giòng lịch sử của tiền nhân, chúng ta không thể không rung động trước những hình ảnh đẹp nhất của những chiến sĩ cách mạng trong lịch sử chống ngoại xâm và nội thù, giành độc lập cho dân tộc, cái đẹp của lòng yêu nước thiết tha, nhưng cũng chất chứa nhiều nỗi u hoài, tuyệt vọng. Những Trần Bình Trọng “Thà làm quỉ nước Nam, chớ không thèm làm vương đất Bắc”, một Nguyễn Biểu ung dung ngồi rung đùi ăn cỗ đầu người trước mặt Trương Phụ, để có mộtĐặng Dung mài kiếm dưới trăng thề diệt kẻ thù “Thời lai đồ điếu thành công dị”, để có một Nguyễn Cao tự tay khoét rốn rút ruột của chính mình vứt vào mặt kẻ thù, để có một Võ Tánh, một Ngô Tùng Châu“Khảng khái cần vương dị, thung dung tựu nghĩa nan”, để có một Phan Thanh Giản “Hết dạ giúp Vua trời đất biết, tan mình vì nước quỉ thần hay!”; để có một Nguyễn Trung Trực “nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam chống Tây”; để có một Nguyễn Khuyến “Diện ngoại bất cầu như mỹ ngọc, tâm trung thường thủ tự kiên kim”, để có một Nguyễn Thái Học “Chết vì tổ quốc, cái chết vinh quang, chí ta sung sướng, lòng ta nhẹ nhàng!”, Những chiến sĩ cách mạng đã khơi dậy những phong trào yêu nước cao độ, kích động được lòng yêu nước nồng nàn của hàng bao thế hệ, những tấm gương này đã ngàn đời vằng vặc như đôi vầng nhật nguyệt để nhân thế soi chung cho đến ngày nay. Chính những tấm gương xưa, những hy sinh cao cả đó của những con người dám sống, dám nghĩ, dám làm và dám chết cho tổ quốc, những oai linh này đã kết tinh thành hồn sử linh thiêng của dân tộc và làm cho ý thức dân tộc lớn lao lên. Cuộc đời của Nguyễn Trãi và các anh hùng trong giòng sử Việt đã phát huy lòng yêu nước dạt dào với tinh thần yêu nước thực dụng một cách thực tế.
Lịch sử cũng cho chúng ta thấy yêu nước mù quáng sẽ dễ dàng trở thành tay sai cho những chiêu bài “đạo nghĩa, nhân quyền” giả dối, bịp bợm của ngoại bang. Họ đã “khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù”, nhiều tầng lớp thanh niên sẽ bị lợi dụng, nếu họ không học những bài học lịch sử. “Lòng yêu nước đui mù” sẽ biến người yêu nước thành tay sai, mà họ cứ tưởng họ đang làm cách mạng cho dân tộc, những thành phần này họ dễ dàng ngoảnh mặt quay lưng với tổ quốc, họ sẳn sàng tiêu diệt văn hóa và sức sống của dân tộc mà lương tâm không bị cắn rức?. Nếu yêu nước mà không có lý tưởng, thiếu sách lược, kém trí tuệ, thì cũng chỉ “kiến thiết đất nước trên hoang tàn”. (Chúng ta hãy nhìn cái gương của nhóm cầm quyền Cộng sản Việt Nam ngày nay thì thấy rõ nhất. Gần 40 năm Cộng sản “thống nhất đất nước”, nhưng đất nước vẫn tang hoang. Tại sao?!. Câu trả lời ở trên vậy). Tình yêu nước phải được gắn liền với một tâm hồn trong sáng, được dẫn dắt bằng lý tưởng cao đẹp và đầy đủ trí tuệ, yêu nước phải có sách lược để giải quyết vấn đề đất nước hiện tại cũng như tương lai.
Phi Khanh, Ức Trai hay Bạch Vân Cư Sĩ đã phân biệt giữa tình yêu nước và lý trí, giữa con tim và khối óc, là người biết được Thời hiểu đượcThế và nhìn được Cơ. Trong “Quân Trung Từ Mệnh Tập” Nguyễn Trãi đã viết thư cho Vương Thông với lời lẽ như sau: “Được Thời có Thế thì biến mất làm còn, hóa nhỏ thành lớn. Mất thời không thế thì quay mạnh làm yếu, yên chuyển thành nguy, chỉ như khoản trở bàn tay thôi ... trong thiếu lương thực, ngoài thiếu viện binh, ông đã không am hiểu Cơ trời. Đó là điều phải thua”. Vì vậy khi thấy vận hạn nhà Trần đã chấm dứt, Nguyễn Trãi đã can đảm đoạn tuyệt với quá khứ, ông dám bước ra khỏi bóng che của triều đại nhà Trần để tìm đến Lê Lợi. Ông biết tìm đến những người yêu nước, không nặng nợ với quá khứ, để mở ra một hướng đi mới cho dân tộc. Nguyễn Trãi đã nhìn được chiêu bài bịp bợm của nhà Minh, ông đứng trên lập trườngDiệt Minh để chuẩn bị cho ngày quang phục tổ quốc. Nguyễn Trãi đã phóng tầm nhìn vào tương lai để xác định lập trường của ông. Ông đứng trên lập trường của một nước Việt mới. Một nước Việt sắp ra đời và sẽ phải ra đời.
Năm 1420, Nguyễn Trãi đã cùng 28 vị anh hùng Lam Sơn cùng nhau “kết ước hội thề” (“Hội Thề Lũng Nhai”). Ý niệm “hội thề” là một sáng kiến “tiền cách mạng” về mô hình tổ chức chính trị. Ý nghĩa của hội thề này là sự ràng buộc những người làm việc nước bằng “qui ước đạo đức” để giảm thiểu tính, bất công, chuyên chế, tham lam, thủ cựu và đồng thời đề cao tính lý tưởng, tính khai phóng và tâm hồn rộng lượng của người lãnh tụ kháng chiến, cũng như người lãnh đạo đất nước trong tương lai (xin hiểu lãnh tụ và lãnh khác xa nhau). Hội thề là xã ước thành văn đầu tiên của thời kỳ tiền cách mạng, là nối kết cuộc vận động đương thời với những gì thiêng liêng của dân tộc và thiết lập giá trị đạo đức cho công cuộc cứu nước. Hội Thề Lũng Nhai, cũng như quan điểm về thời đại của Nguyễn Trãi như đã nói trên, một lần nữa xác định sự trưởng thành về ý thức dân tộc của một thế hệ mới. Nhiệm vụ “cứu quốc tồn chủng” không còn là độc quyền của một dòng họ, của triều đình, của giai cấp quí tộc hay do một “Đảng; quản lí”. Cứu quốc tồn chủng là nhiệm vụ cao cả của mọi con dân Việt, từ thành phần khoa bảng cho đến người nông dân vô danh. Từ người trí thức đến kẻ thất phu đều phải có trách nhiệm và đó cũng là ý nghĩa của câu “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Hội Thề Lũng Nhai là ý niệm của “tự do, bình đẳng và huynh đệ” (Không phải Nhân Quyền. Vì không có Nhân Chủ thì làm sao có Nhân Quyền?), là khởi điểm để đi đến xác định được giá trị chính thống lịch sử. Nhờ đó phong trào kháng chiến Lam Sơn, tái tạo được đạo đức đã mất của tầng lớp lãnh đạo, xây dựng lại “nội lực” dân tộc, để sẳn sàng hình thành một triều đại mới và một nước Việt mới. Từ Hội Thề Lũng Nhai, Lam Sơn đã trở thành hoa địa cách mạng làm hồi sinh sức sống của dân tộc. Xuất phát điểm lịch sử ấy đã đẩy cuộc khởi nghĩa Lê Lợi đến thành công, đã giúp Lê Lợi giành được độc lập cho tổ quốc, khai sáng triều đại nhà Lê, hoàn thành được sứ mệnh cứu quốc tồn chủng của tiền nhân, và mở ra một thời đại “Phục Hưng, Phục Hoạt”dân tộc. Chính sự “phục hưng, phục hoạt” dân tộc này sẽ làm cho dân Việt ý thức và lớn lao lên.
Ngày nay trong điều kiện hiện tại, công việc mọi người chúng ta phải làm là: “Tập hợp và đoàn kết dân tộc, khơi lại dòng sống lịch sử của tiền nhân, mỗi cá nhân bất luận dù đang sống ở trong nước hay hải ngoại đều phải chuẩn bị cho mình có một khả năng hiểu biết, để nhận lấy trách nhiệm khi đất nước cần”. Nhưng đoàn kết, tập hợp và khơi lại lịch sử chưa đủ. Vì lịch sử “tương lai” đòi hỏi người lãnh đạo phải có một viễn kiến Sâu; Rộng. Phải biết phóng tầm nhìn lớn về con đường “phục hưng phục hoạt” dân tộc, cũng như các công trình kiến thiết đất nước. Đó là nền tảng để đưa đất nước vào thời đại mới, một thời đại an bình và hạnh phúc theo đà tiến của thế giới để làm định hướng cho mầm sống dân tộc Việt được bật ra và lớn lao lên. Mầm sống đó là giấc mơ về một tổ quốc sẽ được hồi sinh sau bao thập niên nằm chết.
Đừng Trông Ngóng Vào Người!.Phải Tự Chủ nhìn lại chính mình, với bàn tay và khối óc của hàng triệu con dân Việt, chúng ta chắc chắn sẽ xây dựng được một xã hội mới nhân bản tươi đẹp hơn, nhân tính khai phóng hơn, nhân chủ thiện mỹ hơn. Công lực của mầm sống đó là công cuộc tập hợp để trở về với dân tộc và cùng nhau “noi gương tiền nhân, dựng cờ đại nghĩa”, công cuộc tập hợp những anh hùng hào kiệt của thời đại, để định hướng đi mới, để cho một chủ thuyết mới, một tư tưởng mới sẽ phải ra đời. Đó cũng là chủ lực chính chỉ đạo tư tưởng của thời đại mới. Cuộc vận động cứu lấy nước, giữ lấy nòi đòi hỏi chúng phải thấy được mầm sống của dân tộc trong mỗi một giai đoạn, khi đất nước đến hồi bế tắc.
Khi mầm sống ấy đến ngày thành thục nó sẽ bộc phát thành giòng sóng đáy, thành một bùng nổ lịch sử, nó sẽ làm vỡ những bờ đê đóng cõi, phá vỡ những rào cản thời đại, quét đi những ươn hèn thối nát, những tàn dư xấu xa của xã hội cũ, để làm thành “xuất lộ lịch sử” cho dân tộc. Cái đột biến và đặc biến ấy đòi hỏi những người đi làm lịch sử tương lai, phải thật tâm nhìn thấy những cái sai quấy của thời đại cũ, những cái vô lý bất công của xã hội cũ, những cái thối nát xuẩn động cục bộ đã phản lại dòng sống của dân tộc.
Xuất Lộ Lịch Sử là khởi điểm của công cuộc xoay chuyển thời đại để mở ra thời kỳ phục hưng và phục hoạt để làm cho dân tộc Việt trường tồn, để công tác bảo vệ bờ cõi bền vững hơn, để xây dựng một đất nước hợp lý hơn, hợp với lòng người hơn, hợp với qui luật phát triển hơn và hợp với lịch sử hơn. Đó là ý nghĩa của cuộc cách mạng cao đẹp và cũng là thông điệp của tiền nhân đã gởi đến cho thế hệ chúng ta hôm nay cũng như mai sau. Ông cha chúng ta đã đem gần như cả cuộc đời cống hiến cho tổ quốc. Còn chúng ta, chúng ta sẽ là những lớp người kế tiếp, nối bước tiền nhân hoàn thành sứ mệnh đem Đại Nghĩa trở về trên quê hương yêu dấu, chính chúng ta phải “Quang Phục Tổ Quốc”. Với những kiên tâm, trì chí đi theo con đường lý tưởng mà cha, anh chúng ta đã đi, thì nhiệm vụ khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua và hoàn tất.
Vân Anh
(*) Tướng Lê Hữu Dũng. Khoảng năm 1985 người viết có đọc tài liệu này được viết trong tập san Văn (nếu Vân Anh không nhầm, vì đã mấy mươi năm nên không còn nhớ rõ) do Giáo sư Cao Thế Dung viết về giai thoại lịch sử này, cũng như các chiến công của ông đã tạo được trong công cuộc kháng Minh. Nếu đúng (hay sai) cũng xin Giáo sư Cao đính chính dùm. Chúng tôi sẽ đưa vào trang web Wiki Việt ngữ để đính tên tuổi cũng như các chiến công của tiền nhân. Các bạn đọc giả cũng có thể giúp làm những công việc này, để cho con cháu chúng ta nghiên cứu sau này. Đa tạ!
(Bài 2) Kể từ thời Tây Hán trải dài cho đến ngày nay, các giới vua, chúa cầm quyền ở Trung Hoa qua bất cứ thời đại nào nói chung. Họ đã có một sách lược rất rõ ràng với các sắc dân chung quanh, mà họ gọi là bọn “man di”. Sách lược của Trung Hoa đã xác định rõ rệt là: “phải có nhiều phương cách thôn tính và đồng hóa các quốc gia lân bang” nói chung. Giới cầm quyền Trung Hoa với những suy tư, suy nghĩ sai lệch như trên đã khiến các quốc gia lân bang Trung Hoa phải có những kế sách khả dĩ đương đầu với các cuộc xâm lăng của họ về nhiều mặt như: văn hóa, chính trị, kinh tế, tình báo, thương mại ..v.v..
Song song với kế sách đó là chống lại sự bần cùng diệt vong dân tộc Việt gây ra bởi tập đoàn Việt Gian Cộng sản điên rồ, mù quáng. Quá khứ cũng như hiện tại chúng đã mượn danh nghĩa tổ quốc, dân tộc, nhân dân để thỏa mãn tham vọng cho riêng gia đình chúng. Chúng mượn oai linh của tổ quốc để mưu cầu bả danh lợi cho đảng phái, cá nhân, cho giòng họ chúng. Chúng gian manh khéo léo đầu cơ lòng yêu nước của đại đa số tầng lớp thanh niên Việt đầy nhiệt huyết. Bọn chóp bu cầm quyền Việt Gian Cộng sản, chúng chỉ là một lũ vong bản. Toàn dân Việt ngày nay ai ai cũng hiểu rằng: muốn thắng bọn Cộng sản gian manh này để đất nước không bị lệ thuộc Bắc phương, toàn dân Việt chúng ta phải đồng loạt công kích bọn chúng ở tất cả mọi lãnh vực.
Đọc lại lịch sử Việt xưa chúng ta thấy Tiền Nhân của chúng ta lúc nào cũng nghĩ đến sự yêu thương, công bình, sinh thú, áng nhiên. Tiền nhân chúng ta đã đem tình yêu không riêng cho con cháu họ, mà còn cho những người chung quanh và luôn sống với tấm lòng “Nhân” chân thật. Theo sách vở của tổ tiên chúng ta để lại có dạy thế nào là: “Nhân”.
Vân Anh xin phép được mở dấu ngoặc ở đây để nói sơ về chữ Nhân là Người (vì người mới có lòng Nhân), là lòng nhân trong dòng sống Việt hay còn gọi là “chữ Nhân trong đạo Việt”. Sách xưa có dạy: “năng hành ngũ giả ư thiên hạ vi nhân hỹ”; nghĩa là: phàm làm được năm điều ở trong thiên hạ đó là Nhân vậy. Năm điều đó là gì! Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung thì không khinh nhờn; Khoan thì được lòng người; Tín thì người ta tin cậy mình được; Mẫn thì có công; Huệ thì đủ khiến được người. Như vậy cứ theo ý nghĩa của các câu trên, thì Nhân là nói đến sự hành động phải hợp với Thiên Lý, làm việc công thì phải bỏ hết cái tư tâm, tư ý ra ngoài. Làm cho người cũng như làm cho mình, và lúc nào cũng kính cẩn, thân ái như một.
Nhưng định nghĩa chữ Nhân ở trên thì cũng chỉ hiểu cái “Thể”. Trong cái thể yên lặng ấy; tựa “núi” lại có đức tính thầm lặng nhưng sáng suốt, mạnh mẽ qua sự “điều hòa” của “núi”. Như vậy thì Nhân với Trung (điều hòa) cũng cùng một nghĩa, vì với muôn loài sinh ra sống bám vào đất “núi”, thì không bao giờ là không có hậu tình. Hiểu “thể” tất phải biết “Dụng”, cái “dụng” của “Nhân”; tức là đức lớn “bồi dưỡng sự sinh” (ái). Nhân còn có định nghĩa khác lớn và rộng hơn thế nửa. Nên sách có câu rất gọn và cũng rất rộng để tả về Nhân là: “Trí giả động, nhân giả tĩnh”; (trí thì động; nhân thì tĩnh). Như vậy theo nghĩa của các câu trên thì Nhân lại là cái thể Tĩnh như “Núi”. Yên lặng và cao lớn như Núi, vì bao nhiêu đức tính khác cũng từ đó mà sinh ra, khác nào từ các “Cây” cổ thụ to lớn cho đến các loài cỏ mềm đều mọc cả trên núi. “Hỡi núi cao lồng lộng!. Chót vót song chon von và không lớn rộng”.
Vậy chữ Nhân cũng hàm nghĩa cái ý của chữ “Ái”. Vì có Nhân mới có Ái (nên gọi là nhân ái), có ái mới có lòng yêu người, thương vạn vật (*), muốn vạn vật bao giờ cũng được sống ở đời, để môi trường duy nhiên đươc thăng bằng. Vậy có Lòng Nhân mới có Bác Ái, có bác ái thì người ta mới hợp quần, mới xem cả đoàn thể như một người. Như vậy nghĩa rộng của Nhân; “Nhất Thể là Vũ Trụ”.
Nếu Nhất Thể là Vũ Trụ, thì mọi người sống trong một xã hội (xã hội loài người) ví như thân thể của một cá nhân, khi thân thể người đó bị đau thì toàn thân cảm thấy khó chịu, đó là ý nghĩa trong sự “toàn thân liên đới”. Người có bệnh mà không thể cảm giác là mình bị bệnh nơi đâu, nên trong Đông y thầy thuốc gọi đó là bệnh Tê Liệt. Bệnh Tê Liệt còn được gọi là bệnh “Ma Mộc Bất Nhân”. Vì sao gọi là “Ma Mộc Bất Nhân”. Vì người khi mang chứng bệnh này, thì bệnh nhân đau nơi nào họ cũng không thể tự biết, chỉ biết toàn thân bị tê liệt.
Như vậy những người Bất Nhân ở trong xã hội cũng như người đang mang bệnh Ma Mộc Bất Nhân họ không thể tự biết, vì toàn thân họ bị tê liệt. Nên mặc ai bị dằn vặt đau khổ thế nào!. mặc ai bị bóc lột tận xương đau đớn làm sao!, mặc ai cơ hàn rên xiết! mặc ai bi thảm khóc than!, thì loại người đang mang bệnh Tê Liệt nói trên họ cũng dửng dưng không hề cảm động. Vì Ma Mộc Bất Nhân nên toàn thân họ từ tâm hồn đến thể xác của họ đều vô cảm.
Vậy lòng yêu người; thương vật, thì tấm lòng yêu thương đó đều xuất phát từ tự nhiên của Nhân, nhân đó được gọi là An, mà An là đức tính tốt của người có lòng Nhân. Người có lòng Nhân thì trong họ tự nhiên đã có trực giác tỏa sáng, vì trong sáng nên họ làm việc bao giờ cũng thành đạt. Người Bất Nhân thì Vị tư tâm, tư trí, trực giác mờ mờ, tối tối nên họ chuyên làm những điều tàn ác trái với thiên lý. Nên không lúc nào những kẻ Bất Nhân, Tàn Ác mà sống được an lành và không bao giờ những người này họ có được hạnh phút trong tâm hồn, cho dù họ có tiền muôn bạc tỷ!.
Tóm lại Nhân gồm cả Thể và Dụng. Thể thì cô tịch, lặng im nhưng vẫn có sẳn cái năng lực sinh ra các đức tính tốt. Nói cách khác tựa như cái Hạt bên trong Quả. Bởi khi có hạt thì sẽ nẩy mầm rồi sẽ mọc ra cành ra lá. Vì vậy người ta gọi cái phần ở trong Hạt ấy là Nhân, nhân sinh quả nên gọi là Nhân Quả. Dụng là phần dễ cảm ứng thông suốt đến người và vạn vật. Vì Dụng như vậy nên lúc nào cũng thích hợp với thiên lý. Nói một cách rõ ràng hơn là: kẻ Nhân thì từ tâm hồn lẫn thể xác đều đầy những tình cảm chân thực, nên kẻ đã Nhân thì bao giờ cũng hiếu đễ và trung thứ. Trái lại những kẻ Bất Nhân thì đầy những trí thuật, mưu lợi, khôn khéo, gian ngoa nên tình cảm thì luôn luôn đơn bạc và không chân thực. Vì bản chất đã đơn bạc và giả dối nên con người sinh ra gian ác, tàn nhẫn, thất trung, bất nhân, quỉ quyệt cũng là lẽ tất nhiên.
Nhân lại là cái gốc lớn trong trời đất, vạn vật nhờ đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà tồn tại, lễ nghĩa nhờ đó mà phát sinh thêm. Nhân cũng là tôn chỉ của tôn giáo, chính trị, học thuật, hành vi của cá nhân mà hợp với Nhân Đạo là phải, trái với Nhân Đạo là trái. Cái đạo học của Nhân to lớn như vậy, sâu xa như vậy. Cho nên người quân tử Đông phương suốt đời lo tu dưỡng chữ Nhân, nên họ làm việc điều hòa, bình hành, thích hợp lưu hành với tự nhiên vậy!.
Lịch sử Đạo Việt xưa đã vậy!. Lịch sử của thời cận đại ngày nay thì sao?!. Chắc hẳn chúng ta đều nhìn thấy những sự thù hận, tham lam, bất công, ganh tị được giấu đằng sau những mỹ từ “bình đẳng”, “đạo nghĩa”. Họ nhân danh “đạo nghĩa”, “bình đẳng” như một thứ quyền năng để mưu đồ tư lợi cho tập đoàn, cho đảng phái hay cho riêng chủng tộc của họ. “Bình đẳng”; “bình đẳng”. Trong xã hội dân chủ phải có tiền mới bình đẳng.
Trong hơn 100 năm qua (nói về thời cận đại) các đế quốc da vàng cũng như da trắng đều nghĩ cách khống chế tư tưởng và nô lệ hóa con người dưới nhiều chiêu bài, hình thức khác nhau. Nhưng mục đích lường gạt để bóc lột người thì cũng chẳng có gì khác xưa cho lắm. Hơn 100 năm qua (nếu tính từ năm Tân Hợi -1911. Tại sao Vân Anh phải lấy thời điểm năm Tân Hợi?!), Âu và Á họ cũng chỉ nuôi sống một đám Gian Thương Chính Trị Trên Thế Giới (lập lại là: “đám gian thương chính trị trên thế giới”. Đọc giả nào còn nghi ngờ cụm từ “gian thương chính trị”, thì xin tìm đọc và so sánh “kiến thiết giai đoạn luận” của Tôn Văn có “giống nhau” với “cách mạng giai đoạn luận” của Lenin hay không?!.), để thủ lợi trên xương máu của các dân tộc nhỏ đáng thương. Họ dùng bọn“gian thương chính trị” (từ của Vân Anh) để làm nhiễu loạn chính sự của thế giới để thủ lợi, cho nên nền chính trị của họ không lấy nhân nghĩa để làm gốc mà lấy tư lợi để mưu cầu chính trị. Vì họ quan niệm; “chính trị là quyền lợi” nên họ làm việc cho dân, cho nước cũng vì tư lợi, thương cha kính mẹ cũng vì tư lợi, đạo nghĩa vợ chồng cũng vì tư lợi. Tóm lại những kẻ đã cầm quyền nếu làm được điều nhân thì trị dân được lâu dài, làm điều tàn ác thì ngược lại. Người cầm quyền là đất nước đã giao phó cho mình những việc trọng đại có quan hệ đến vận mệnh của đất nước. Nếu không được trời đất; qủy thần giao phó cho mình công việc trị dân, thì đó cũng chỉ là thế lực cường bạo của những kẻ đạo tặc.
Tóm lại thì tình nghĩa cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn, người thân đều vì tư lợi, nên khi quyền lợi bị va chạm thì họ sẽ sẳn sàng giết nhau cũng vì tư lợi. Tư lợi bất chính đã gây ra biết bao nhiêu tội ác, tai họa, đau thương thống khổ đầy máu và nước mắt cho con người khắp nơi, trong suốt chiều dài lịch sử từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á và ngày nay tội ác họ đang gieo rắc đó vẫn chưa chịu dừng lại (cứ nhìn dân của các quốc gia Trung Đông và Á Châu ngày nay như: Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Cao Miên, Miến Điện ..v.v.. thì rõ nhất). Người dân hiền lành ở các quốc gia này họ vẫn là con người đáng thương và cần được cứu giúp!.
Tập đoàn Cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ là một tập đoàn “lưu manh chính trị”, vì không có việc gì bất nhân, tàn ác mà chúng không dám làm, chúng đã tự đưa đưa chúng vào ngõ bí. Từ năm 1945 sau khi chiếm trọn miền Bắc và năm 1975 chiếm trọn miền Nam cho đến nay; chúng đã dùng máu và nước mắt để trấn áp người dân Việt một cách bạo tàn không bút mực nào có thể tả xiết. Chúng đã xem quốc gia như là một công cụ của “đảng” để chúng mặc cả, thì tất nhiên tập đoàn gian thương của chúng sẽ sụp đổ, bị tiêu diệt mà không có cách nào để cứu vãn được nửa. Muốn cứu lấy quốc gia thì bắt buộc phải đập vỡ các cơ cấu “lưu manh chính trị” ấy đi, thì mới mong rằng có thể (có thể thôi) chỉnh đốn được phần nào quốc gia Việt Nam.
Thông thường khi một bộ phận nào đó của quốc gia bị hỏng, thì những người điều hành có thể phá bỏ bộ phận đó để chỉnh đốn guồng máy quốc gia. Nhưng khi cơ cấu đã hỏng thì xã hội đó đương nhiên phải băng hoại, quốc gia đó phải chịu cảnh diệt vong không thể khác. Khi bọn gian thương chính trị và bọn lưu manh chính trị ngồi lên trên luật để điều hành quốc gia, thì trước hay sau gì dân tộc Việt cũng phải chịu cảnh tiêu vong. Hiện nay cho dù tập đoàn Việt Gian Cộng sản có dùng tiền bạc và nhiều thứ khác để mua thời gian, thì rồi cuối cùng chúng cũng phải chết. Vì theo quy luật từ xưa cho đến nay, thì không một quốc gia nào tồn tại được lâu; khi cơ cấu chính trị của quốc gia đó đã hỏng.
Ngày nay tội ác xấu xa đó đã được phơi bày, sách vở và tài liệu đã được bạch hóa rất nhiều trên các hệ thống chuyển tin toàn cầu (Internet), thiết nghĩ con người của thời đại ngày hôm nay nên tỉnh ngộ mà vứt bỏ những cái xấu xa, tham lam, hư hèn của thời quá khứ. Các dân tộc đã bị đè nén nên mạnh dạn đứng dậy để xây dựng cho chính mình một tương lai tươi đẹp hơn. Chúng ta nên hiểu rằng chỉ có chúng ta mới cứu được đất nước chúng ta ra khỏi vũng lầy hôi tanh này, chỉ có chúng ta mới thương yêu anh em chúng ta. Quá khứ đã cho thấy không phải vì lòng tốt, mà các “siêu cường” đã nhân danh các “hiệp ước, liên minh” để bảo vệ chúng ta. Lời nói “yêu thương” cũng chỉ là chiêu bài để lừa bịp chúng ta. Những mỹ từ “tự do, bình đẳng”, “đạo nghĩa, luân thường” chỉ là trò đùa của giới tài phiệt Đông cũng như Tây lắm quyền nhiều lực, mà người quốc gia Việt chân chính đã bị họ lừa phỉnh. Thân phận của hàng chục triệu người Việt; Nam cũng như Bắc rẻ mạc như những món hàng đã được rao bán trong buổi chờ về chiều. Nếu chúng ta không đùm bọc chia sẻ và yêu thương lẫn nhau trong thế giới đang hỗn man này và nếu chúng ta cứ mãi tham lam, thù ghét, ti tiện nói chung, thì dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ bị diệt vong.
Đất nước Việt Nam, nhìn lại quá khứ; tiền nhân Việt đã cho bọn ngoại xâm và nội thù (Việt Gian Cộng sản và bọn xâm lăng Trung Cộng) những bài học để thể hiện tinh thần Vạn Thắng một cách oai hùng lẫm liệt!. Các thủ đoạn để thực hiện bá quyền của Sô Vanh Bắc phương tóm lại tựu chung ở các điểm sau đây:
a) Dùng những điều gọi là “hiệp ước” để chiếm đoạt.
b) Xâm lược nhưng ẩn nấp dưới những điều khoản “kinh tế”.
c) Ngụy trang và ngụy tạo để thực hiện hành động xăm lăng.
d) Khai thác mâu thuẫn giữa người Việt để dễ bề trục lợi.
đ) Đe dọa và khủng bố các thành phần yêu nước ngấm ngầm chống bọn xâm lăng phương Bắc.
Và khi đã xác định được sách lược thôn tính rồi, thì họ chuẩn bị những bước kế tiếp dưới đây để chấm dứt kế sách xâm lăng cũng như đồng hóa người Việt bằng một cuộc chiến tranh “kinh tế, văn hóa, quân sự” vô cùng tàn bạo.
1) Phá Hoại Kinh Tế Đối Phương Trước Khi Xảy Ra Chiến Tranh:
Phá hoại kinh tế nghĩa là bần cùng hóa chính sách đối phương (Việt Nam). Hiện nay ta thấy Trung Cộng đang làm đối với Việt Nam và các quốc gia lân bang như Lào, Miên, Miến Điện, Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn cũng là điều dĩ nhiên. Mặc dù bên ngoài chúng vẫn cho các tên cò mồi trấn an dư luận bằng những bài “diễn văn”, các các bài viết trên các mặt báo chí của chúng. Nhưng bên trong chúng vẫn âm thầm thực hiện các mưu mô thâm độc để đồng hóa các sắc dân nhỏ chung quanh.
Phá hoại kinh tế cũng có nghĩa là: tiêu diệt chiến chí là tiêu mòn trí thức đối phương. Hủ hoá chính sách cũng như ngu hóa chính sách đối phương. Như vậy nếu nhìn cho kỹ thì chính các nước như: Mỹ, Nga, Âu Châu, Nhật, Ấn ..v.v.. cũng đang bị Trung Cộng tấn công; lấn chiếm bằng nhiều mặt và xâm lăng bằng nhiều hình thức khác nhau, mà các nước này “dường như” họ không có một kế sách hữu hiệu nào có thể khả dĩ đối phó hay chận đứng với các kế sách thâm độc của Trung Cộng hiện nay.
Vấn nạn này trong các bài viết của Vân Anh cũng đã có viết ra để cảnh cáo cũng như cảnh báo từ lâu. Và như Vân Anh đã có nói: “nếu Trung Cộng chiếm được Á và Úc Châu thì xem như Mỹ và Âu Châu vĩnh viễn không thể lật ngược thế cờ để phòng thủ, nhưng khi đã không thể phòng thủ thì làm sao có đủ tiềm lực về nhiều mặt để tấn công đối phương?!. Hóa giải bước tiến của Trung Cộng không thể đơn giản chỉ viết ra trong một bài viết ngắn này. Vì đa số không thấy được các thủ đoạn của Trung Cộng đã và đang thực hiện mộng xâm lăng thế giới tinh vi đến mức nào (theo Vân Anh hiện nay - 2012 - nếu muốn lấy Á và Úc Châu thì quá dễ dàng để thực hiện ý đồ này). Sau hơn 1,000 năm đất nước Việt bị xâm lăng; xâm thực, nhưng người Việt chúng ta vẫn còn cơ hội để sống và vươn lên. Nếu đặt giả thuyết khi bất ngờ Trung Cộng tấn công và chiếm đóng Âu Châu, thì thành viên các quốc gia Âu Châu hiện nay sẽ làm gì để tự vệ?!. Câu trả lời này xin dành cho chính họ để họ tự suy nghiệm lấy.
Và một lần nữa Vân Anh muốn xác nhận là các chiến lược gia người Trung Hoa đang ngồi trong bóng tối điều hành toàn cõi Hoa Lục và đạo quân thứ 5 của họ ở hải ngoại ngày nay, họ giỏi hơn Khổng Minh ngày xưa rất nhiều. Một số trí thức Á châu (kể cả người Mỹ gốc Tàu) khi nghiên cứu chính trị đương thời, họ nghĩ rằng Hoa Lục hiện đang bị khủng hoảng về lãnh đạo và “dường như” Hoa Lục không có lãnh đạo tài giỏi!. Đây là một nhận xét vô cùng sai lạc, nếu không muốn nói là phương Tây và Mỹ có lẽ đã “trúng kế” giới Hoa Kiều ở Washington DC thì phải. Và như Vân Anh đã có nói: “người Trung Quốc thì đi đâu họ cũng hãnh diện là người Trung Quốc, họ làm việc cho mẫu quốc của họ thì cũng là điều phải thôi” (chứ không lẽ họ lại làm việc cho Mỹ hay phương Tây!). Vận mạng của những quốc gia như: Mỹ, Nhật, Ấn, Đức, Anh ..v.v.. không thể ủy thác vào một vài bài “phân tích” của những người Mỹ gốc Trung Hoa đang làm việc ở trong các lãnh vực chính trị và văn hóa của Mỹ cũng như phương Tây. Trong ngành phản gián thiết nghĩ “nhân dân tình báo sở” của Hoa Lục họ cũng là bậc “sư phụ” trong giới “võ lâm” xưa cũng như nay.
Xin nêu ra một ví dụ nhỏ là:
1) Từ năm 1949 cho đến nay, đã có hàng vạn cuộc nổi dậy của người dân Trung Hoa nhưng đều bị dập tắt trong âm thầm. Trong khi đó Li Băng, hay Ai Cập hiện nay chẳng hạn, chỉ có vài cuộc biểu tình đã làm thay đổi hẳn tình hình chính trị của các nước này, mặc dù phương Tây hết sức ủng hộ các thể chế độc tài này. Ai Cập vừa qua đã bầu cử như thế nào chắc mọi người đều biết. Hơn 25 năm trước Vân Anh đã được đọc bộ “Quốc Sách Thảo Án Toàn Pho”, bộ sách được viết ra từ năm 1942. Tác giả đã cho biết “Thanh Gươm Lập Công” là cuộc cách mạng võ lực của người Hồi Giáo ở thời điểm từ năm 2000 trở đi, họ sẽ “Lập Công” cho thế giới này noi theo (người Hồi Giáo lấy thanh gươm làm biểu tượng sức mạnh ý chí của họ) và các cuộc cách mạng của toàn dân Trung Đông ngày nay. Tác giả của bộ sách trên cũng cho biết thêm cuộc cách mạng nào sẽ nở hoa trên quê hương Việt Nam và cuộc cách mạng phục hưng; phục hoạt xã hội Việt đã bắt đầu từ năm 2010. Chúng ta nên bình tĩnh chờ một thời gian ngắn nửa xem sao!).
Ví dụ ở trên chứng tỏ các bàn tay chỉ đạo ở Hoa Lục họ phải giỏi. Hoa Kiều ở Washington DC, họ đã làm mưa làm gió ở đất Hoa Kỳ trong nhiều thập niên qua mà ít có người biết cũng như có thể chận đứng được họ. Ngày nay mọi người đều nhìn thấy Quốc Hội Mỹ cũng là một nơi lạm quyền và đầy tham nhũng (vậy người Trung Hoa có lãnh đạo giỏi không?!). Tập đoàn Cộng sản Việt Nam thì từ năm 1942 cho đến ngày nay là năm 2012, lại do Mỹ và Trung Cộng giúp đỡ chúng trong nhiều thập niên qua, cho nên đến nay chúng vẫn chưa sụp đổ là vậy!.
Những tài liệu gần đây được bạch hóa cho chúng ta thấy chuyện người Mỹ gốc Anh và tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, những thỏa thuận để ngầm bán Việt Nam cho Cộng sản Tàu đã từ từ được công chúng Hoa Kỳ biết đến. Ngày nay tập đoàn Việt Gian Cộng sản đã hết đường tuyên truyền một cách lừa bịp rằng chúng “chống Mỹ và thắng Mỹ”. Hàng nghìn trang tài liệu và hình ảnh từ các bộ ngân khố của Nga, Mỹ, Pháp, Anh, Trung Cộng đã cho chúng ta thấy tập đoàn Cộng sản Việt Nam chúng chuyên làm tay sai cho bất cứ thế lực ngoại bang nào, miễn chúng được ngồi trên quyền lực và bóc lột người dân Việt thế thôi.
Người Việt Nam nói chung, từ bây giờ và sau này phải học những bài học kinh nghiệm xương máu hôm nay, để ngày mai những thế hệ Việt Nam kế tiếp và cho con cháu chúng ta các thế hệ sau này có một cái nhìn đứng đắn hơn về thế giới phương Tây khi có dịp bước chân vào chính trường để lèo lái con thuyền quốc gia đi đến nơi bình an. Nhất định đừng bao giờ trông ngóng và người để tìm sự giúp đỡ. Chúng ta phải Tự Chủ và Tự Cường. Ngoại nhân “giúp đỡ” chúng ta chỉ khi nào họ thấy sự giúp đỡ đó đem lại lợi nhuận cho họ. Chính trị của các xã hội phương Tây là Lợi Nhuận, đơn giản chỉ có vậy!.
Một người trí thức của Trung Hoa đã “tâm sự” với Vân Anh rằng: “chúng tôi cũng có thừa trí khôn để hiểu là hơn 100 năm qua, “chính quyền” các nước Tây phương đã lợi dụng và bóc lột xương máu người dân Trung Hoa nói riêng và các sắc dân Á Châu nói chung một cách không thương tiếc. Những người lãnh đạo (trong bóng tối) mới lên cầm quyền ở Hoa Lục hiện nay, họ đã không còn liên hệ (connections) với Mỹ và phương Tây nhiều như các thế hệ tiền nhiệm trước đây”. Bạn đọc nào đang quan tâm về thời cuộc và tình hình đất nước Việt Nam, xin bình tâm bỏ thời gian để suy tư, suy nghĩ những điều Vân Anh vừa trình bày ở trên, để cùng nhau tìm ra Phương Thuốc Cứu Nước; dù là Thuốc Nổ!.
1.a) Đánh Cắp Khoa Học Kỹ Thuật:
Các quốc gia khác cũng bị các trường hợp Trung Cộng phá hoại kinh tế của họ tương tự như Việt Nam hiện nay là:
a) Trung Cộng có kế sách làm hàng giả. (giả nghĩa là ăn cắp bản quyền, nhưng sản phẩm chế ra thì không giả)
b) Tình báo Trung Cộng xác nhận đã và đang điều động các tổ chức của người Tàu đánh cắp các loại khoa học, kỹ thuật trên thế giới.
c) Trung Cộng bán phá giá ra thị trường đủ loại các mặt hàng để đánh phá kinh tế đối phương.
d) Trung Cộng có chiến dịch di dân nghèo khổ, tội phạm trên đất Hoa Lục sang các quốc gia khác để tạo ra các xáo trộn và gây cảnh hỗn loạn xã hội của các nước lân bang.
đ) Trung Cộng mua và “xuất cảng” gái các nước Á Châu sang các quốc gia Tây phương và Mỹ để phục vụ trong các hệ thống mãi dâm, trồng và bán cần sa, ma túy. Trong khi đó thì họ mua (hoặc dụ dỗ rồi bắt cóc) các cô gái Âu Châu da trắng về để phục vụ cho các tầng lớp có quyền và có tiền ở Hoa Lục.
Và còn nhiều kế sách khác mà nhóm cầm quyền Trung Cộng đang thi hành một cách vô cùng thâm độc với các quốc gia Á Châu mà người viết chưa tiện nêu ra ở đây. Nhưng các “bạn” Âu Châu nên nhớ rằng: nếu Trung Cộng vào được nước bạn, thì trong vòng 6 tháng đàn bà, con gái trong nước của bạn mất đi một nửa, trong vòng 1 năm thì đàn ông của nước bạn mất đi 90%, trong vòng 5 năm thì đất nước của bạn sẽ bị xóa sổ. Và đây là sự thật có dẫn chứng chứ không là lời tiên đoán vô căn cứ. Các điều viết ra ở trên đây chúng ta phải lấy kinh nghiệm lịch sử nhà Minh khi họ xâm lăng nước Việt để làm điển hình cho giai đoạn này trở đi của đất nước chúng ta, cũng như của cả thế giới. (xin tìm đọc bài trước và đoạn dưới chỉ nói sơ sơ về nhà Minh khi xâm lăng Việt Nam vào đầu năm 1407, thì sẽ rõ.)
2) Xâm lăng bằng võ lực:
Khi xâm lăng bằng võ lực và trước khi Trung Cộng giao chiến với đối phương, thì họ tìm cách hủy diệt kinh tế đối phương; làm tàn phá mùa màng gây rối loại thương trường. Họ “viễn giao cận công”; là cấu kết với các quốc gia chung quanh đối phương để dễ bề tấn công về nhiều mặt quân sự, tình báo, kinh tế ..v.v.. cùng một lúc, họ tìm cách khuấy động về tranh chấp lãnh thổ để tiêu diệt người bản xứ và dùng dân bản xứ để gây hỗn loạn và tấn công người bản địa. Các tổng hành dinh của các “Bang; Hội”, cũng như các địa điểm “truyền đạo” của người Tàu trên lãnh thổ đối phương, sẽ là những trạm “giao liên” hoạt động hữu hiệu về nhiều mặt.
2.a) Sau Khi Xâm Lăng:
Dùng thủ đoạn cực kỳ tàn ác sau khi đã xâm chiếm được lãnh thổ của đối phương, chúng dùng sách lược tàn nhẫn chia dân ra từng khu vực để cai trị, số người không thể đồng hóa hay cãi hóa được thì phải giết sạch để tránh gây loạn về sau này. (điều này Cộng sản Hà Nội đã từng áp dụng sau khi họ chiếm trọn miền Nam từ năm 1975. Người ta ước lượng có khoảng 1,000,000 - 1 triệu - Nhân Dân Tự Vệ và Xây Dựng Nông Thôn miền Nam bị tập đoàn Việt Gian Cộng sản thanh toán sau năm 1975 - chỉ riêng 2 lực lượng này thôi con số bị giết cũng đã lên đến 1 triệu người - . Ngày nay Vân Anh ít khi được đọc các bài viết nói về 2 lực lượng ưu tú nhưng vô danh này. Các giáo phái, các chính đảng, các lực lượng chiêu hồi của Cộng sản, các thương phế binh của cả hai miền Nam, Bắc. Những thành phần này sau năm 1975 họ đã đi đâu?. Hỏi tức trả lời vậy!.)
Khi nhà Minh đã chiếm Việt Nam vào đầu năm 1407, chúng thành lập một hệ thống cai trị gọi là: “Tam Đầu Chế”, chúng tập trung mọi quyền hành dưới một đầu quân sự gọi là “đô chỉ huy sứ”. Án sát và Bố chính sứ coi về Tư pháp và Dân sự. Chế độ quân sự tập quyền của nhà Minh là đem tất cả nhân lực, tài lực, vật lực của người Việt Nam, gom lại như một “ma trận” và bị chúng kiểm soát cực kỳ nghiêm mật.
Người nông dân Việt bị khống chế và kiểm soát dưới các “Hương Lẫm”, nơi này họ tập trung lại hết mọi lúa gạo, ngũ cốc. Theo tài liệu thì mỗi năm người nông dân Việt phải nộp cho bọn Minh triều là 13 triệu 80 vạn hộc lúa (mỗi hộc là 60 lít). Voi, bò, ngựa khoảng 140 nghìn con (140,000 con). Thuyền chuyên chở khoảng 8,700 chiếc (thuyền bao lớn thì không thấy nói đến kích thước. Nhưng dĩ nhiên phải lớn mới chuyên chở được) ..v.v..
Người công nhân bị khống chế dưới các “Tạp Tạo Cục”, nơi này chúng thu gom hết Sức và Phẩm (nhân lực và tài lực) lao động cho quan nha sử dụng. Các Lý, Giáp, Phường, Tương đều có các địa đồ ghi rõ nội dung các nơi đó. Các phủ huyện, bộ Hộ và các ty Bố chính nắm giữ hết tất cả sổ Biên, sổ Đinh, sổ Điền ..v.v.. Họ còn đặt các quan người Tàu bắt dân phu đi khai thác các mỏ vàng, bạc cũng như đá qúy (ngọc, cẩm thạch chẳng hạn). Quan “Bản Cục” và “Nội Quan” được cử lập hội đồng xem xét đúng phẩm lượng rồi chuyển các vàng, bạc, đá qúy này về Tàu để chúng sử dụng.
Các nhà thương buôn bị khống chế dưới các “Thương Vụ Cục”. Ở các thương vụ cục này thuế má chiếm hết các “lãi lời” và như vậy thì quyền “mậu dịch” của người dân Việt đã bị bóc lột sạch nhẵn. Những người Việt làm việc dưới các cấp như Lý trưởng, Giáp thủ thường bị quan quân nhà Minh đánh đập tàn nhẫn. Những vùng duyên hải chúng cho lập các cơ sở “Kiểm Hạt Trai”, mỗi ngày hàng chục nghìn thanh niên phải lặn xuống biển để bắt ngọc trai.
Giới tu sĩ Việt bị khống chế dưới các “Tăng Khu, Tăng Kỷ và Tăng Cương”. Mọi tôn giáo đều bị khống chế dưới “Đạo Khu, Đạo Kỷ và Đạo Cương”. Nhà Minh họ cho nhập cảng các sách “Tứ Thư”, Ngũ Kinh, Tinh Lý” và các “Tăng Đạo Ty” là nơi truyền bá ra dân chúng về “Đạo Phật” (Đại Thừa) theo kiểu Tàu. “Đạo Phật theo kiểu Tàu” là đạo Phật không chính thống, vì đạo Phật (đại thừa) của Trung Hoa pha trộn với Lão Giáo cộng với sự mê tín bùa chú theo phong tục tập quán của giống dân du mục, nên từ trước cho đến nay có thể nói rằng: có đến 70% hay 80% cái gọi là “đạo Phật” của Trung Hoa đã hiểu biết sai lạc trầm trọng về Phật Giáo.
Đạo Phật như đã nói ở trên theo gót chân xâm lăng của quân Minh “truyền bá” sang Việt Nam và từ đó cho đến nay thử hỏi qua bao trăm năm đã có bao nhiêu ông sư “xây chùa cho to, đúc tượng Phật cho cao” để bắt bá tánh cung phụng cho mình, hơn là tu học theo con đường đức Thế Tôn đã dạy cho chúng sinh. “Tịch, Diệt” là tinh túy của đạo Phật. Vậy xin các bạn chỉ cho rằng: trong nước Việt Nam đau khổ; nghèo đói hiện nay có ông “sư” nào mà không lo xây chùa to, đúc tượng (Phật) thật cao để thụ hưởng. Phật tử chúng ta nên nhớ một điều là: các kinh sách của đạo Phật từ thời Lý, Trần đã bị tịch thu và đốt sạch khi quân Minh xâm lăng Việt Nam. Các biểu tượng liên hệ đến Phật giáo như chùa, miếu, lăng tẩm trong hai thời kỳ Phật giáo Việt hưng thịnh nói trên đã bị phá bỏ, để thay vào các đạo của nhà Minh (nói trên). Vậy thì ngày nay “phái này” hay “phái kia” cũng chỉ là sản phẩm của nhà Minh truyền sang khi chúng vào xâm lăng đất Việt cách đây hơn 600 năm. Hiện nay “chân sư” nào hay ngôi chùa nào còn giữ được nguyên thủy cũng như tinh túy chính thống của đạo Phật nguyên thủy!.
Nhiều triều đại vua, chúa Trung Hoa đã hiểu sai lạc về Phật giáo như vậy, thì thử hỏi ngày nay ở Việt Nam đã có bao nhiêu ông “sư đại thừa” có chùa to, hiện đang “thuyết giảng” về đạo Phật một cách sai lạc. (Vì từ năm 1950 đến năm 1975 và từ năm 75 cho đến nay Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ nước Việt Nam. Đầu năm 1980 Hà Nội đã cho một số cán bộ trung kiên của chúng cạo đầu sang Tây Tạng và Ấn Độ “tu học” để làm “tăng sĩ” chuẩn bị cho việc biến các đảng viên trở thành các “tăng sĩ phật giáo”. Đây là một kế sách khác nửa mà bọn Cộng sản Việt- Hoa đã dự tính dùng “đạo Cộng sản” để lừa bịp người ngoại quốc, khống chế người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới. Nếu người Anh, Mỹ, Pháp, Ý ..v.v.. biết dùng tôn giáo như một lợi khí để làm ... tình báo và gián điệp từ rất lâu, thì tại sao Cộng sản Tàu và Việt lại không biết dùng đạo “Đại Thừa”; Cộng sản” của Tàu để làm gián điệp?!, chùa Tây Lai Tự ở miền Nam California, Hoa Kỳ là một điển hình rõ nhất.
Đa số “chùa” của người Việt và Tàu ở khắp nơi trên thế giới hiện nay đang bị Cộng sản giật giây và điều động, chúng nấp dưới danh nghĩa các “Hội Đạo”, đi quyên góp tiền bạc đem về trong nước để xây “chùa” cho “đạo Cộng sản của chúng. Nhưng các thành phần này nên nhớ rằng: khi cơm Cộng sản, hamburger Mỹ và canh Trung Cộng đã không còn ngọt nửa, thì các tổ chức của “đảng ta” ở hải ngoại, nhất là ở đất Mỹ sẽ không thể tồn tại cho dù một ngày. Chiêu bài dùng “đạo” như là một lợi khí để buộc đối phương phải nhỏ máu - tiền là máu của quốc gia - mà chết, đã không còn hợp thời và linh nghiệm nửa trong đầu thế kỷ 21 này.
Từ năm 1980 cho đến nay cứ mỗi năm Hà Nội lại “đẻ ra” từ 400 cho đến 500 “đại đức” và “thiền sư”. Đó cũng là lý do để giải thích tại sao hiện nay ở Việt Nam một đất nước nghèo khổ mà người ta lại thấy “chùa” chiền mọc lên như nấm gặp mưa. Mới có 25, 27 tuổi đầu chúng đã ngoa ngôn tự xưng là “đại đức”, là “sư”, là “thầy” thì thật là cao ngạo xem Trời bằng vung. Chúng ta luôn nhớ rằng: Đạo Phật là một đạo của khoa học, nên phải dùng lý trí để hiểu đúng; sai. Những gì chưa biết hoặc nghi ngờ thì trong thời đại điện tử, điện toán ngày nay chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng qua hệ thống thông tin “Internet”, không nên nhẹ dạ cả tin những kẻ cao ngạo, tham lam nói trên.
Ngoài chuyện “dậy” và hiểu về đạo Phật một cách sai lạc, nhà Minh còn “truyền dậy” “Đạo Nho” (chúng ta nên lưu ý đạo Nho Tàu khác với đạo Nho Việt), “Đạo Lão”. Một điều chúng ta cần lưu ý nửa là các “tăng lữ và tăng đồ cũng như đạo gia” của nhà Minh là những thành phần hiểu cả “âm dương”; “phương y” (nôm na ngày nay gọi là thuật chiêm tinh và trấn yểm phong thủy). Và họ cũng là những người điều khiển luôn cả việc giáo dục cho dân Việt.
Giới trí thức Việt đều bị kiểm soát dưới quyền của “Ty Bố Chính và Án Sát”, cả hai ty này đều nằm dưới tay của Thượng Thư Hoàng Phúc, bọn này chuyên đi tìm kiếm những người có Văn Học Uyên Bác, những Danh Y, những Nhân Tài Ẩn Danh, những người Hiếu Để. Họ hạn chế tối đa năng lực kinh tế và thủy chuẩn văn hóa của người Việt, kiểm tra và kiểm soát hoàn toàn đời sống của người dân Việt. Nhưng cuối cùng thì cũng chỉ có một số người vong bản, đam mê bả danh lợi như: Phan Liêu tri phủ Nghệ An đã chạy theo bọn xâm lăng thống trị, còn những người có liêm sĩ hiểu thời, biết thế thì họ vẫn tìm cách lẫn trốn hoặc bất hợp tác với bọn ngoại xâm và bọn nội thù.
(Phan Liêu con của Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Qúy Hữu (có tài liệu chép là Phan Quí Hựu). Hữu ra hàng quân Minh được mấy hôm thì bị đánh độc chết. Trương Phụ liền phong cho Liêu chức Tri phủ Nghệ An, vì muốn lập công to với Trương Phụ, nên Liêu tố cáo thực lực các địa điểm quân sự của Trần Qúy Khoách, nhờ đó mà Trương Phụ đánh chiếm Hóa Châu dễ dàng. Cuối cùng Trần Quý Khoách và thủ túc đều bị bắt, trên đường giải về Yên Kinh; Quý Khoách, Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung đều nhảy xuống bể tự tử).
Muối (thức ăn quan trọng) bị kiểm soát rất chặc chẻ dưới “Diêm Thuế Cục”. Muối làm được bao nhiêu thì cuối tháng phải giao nộp hết cho “Ty Đề Chưởng”. Những người nào muốn buôn bán thì phải thông qua “Ty Bạc Chính” (thương chính), khi nào họ khám xét xong mới được đem bán. Làm và bán muối lậu thì sẽ bị xử tội hành hình (bị giết).
Nghệ thuật văn hóa phẩm cũng như các cổ vật quý hiếm của người Việt đều bị lấy đem về Tàu. Những gì không thể lấy đi được (như tượng núi Vọng Phu ở Đồng Đăng chẳng hạn), thì (hiện nay họ đã) đập phá để huỷ đi. Chúng hạn chế và giảm bớt thủy chuẩn của người Việt bằng cách xử dụng lao dịch người Việt vào các công việc nguy hiểm và khó nhọc như: buộc người Việt mỗi nhà phải nuôi một đứa nhỏ con người Tàu (những đứa bé người Tàu từ bên Tàu đưa sang Việt Nam là con cái của các tên tù tội khổ sai của người Tàu). (ngoài ra còn cả triệu quân phu của chúng sẳn sàng đồng hóa người dân Việt). Điều tệ hại này ngày nay đã xảy ra trong nước và hải ngoại, gần đây đã có một nhóm người Việt “tị nạn” ở Mỹ đã cổ võ cho kế sách nuôi các “sinh viên” trong nước đi ra. Hoa Kỳ và các nước Tây phương hiện nay có lẽ vẫn chưa hiểu nỗi kế sách “trồng người” này của Bắc Kinh và Hà Nội như thế nào.
Ngoài các Quân sự khu, Tư pháp khu, Hành chính khu, tất cả các cơ cấu khác đã đan lát lại thành một mạng lưới sắt vô cùng chặc chẻ tựa như hàng vạn gọng kềm sắt nóng đã kẹp chặc người dân Việt dưới một ách thống trị cực kỳ tàn ác. Chúng lấy máu và nước mắt để cai trị người dân Việt vô cùng hà khắc, tàn bạo không thể nào kể xiết. Những cơ cấu ở trên chắc chắn phải có bàn tay phụ giúp đắc lực của bọn người Việt làm tay sai cho phương Bắc (tình hình Việt Nam ngày này đã rập khuôn ngày xưa không khác) chính sách của họ là tiêu diệt và đồng hóa người Việt Nam. Kinh nghiệm đã cho thấy chúng dùng văn hóa lưỡi lê và kinh tế để ép người Việt mặc áo Tàu, đọc sách Tàu, nói tiếng Tàu. Bắt và bán Tinh Hoa của người Việt (bài trước có nói đến) sang Tàu và các nước lân bang, chiêu dụ các nhân tài lộ diện hay về nước rồi tìm cách giết đi. Di dân tù tội ở bên Tàu sang tranh, cướp cũng như chiếm tài sản đất đai của người Việt. Như vậy họ đã có cả một kế sách lâu dài là: phá hết ruộng vườn của người Việt Nam, đẩy người dân Việt (nhất là thanh nữ) đi làm lao nô (cũng như phục vụ tình dục) ở nước ngoài, họ cho di dân người Tàu tràn sang (gần đây Hà Nội chúng có lệnh bỏ ngõ biên giới Tàu-Việt là kế sách này đây) chiếm ngụ đất đai, ruộng, vườn. Sau này khi trở về quê hương thì người dân Việt không còn nơi để sinh sống và không có kế sinh nhai. Như vậy họ sẽ trở thành những kẻ sống lưu vong ngay trên quê hương của họ sao?!.
Sách lược đô hộ vô cùng chu đáo. Bọn nội thù Việt và ngoại xâm nhà Minh đã bóc lột và cai trị người dân Việt, thì xét ra kim cổ Á, Âu chưa bao giờ có, tầng lớp sĩ phu và dân chúng Việt như bị hàng nghìn ngọn roi thép lạnh đánh thấu buốt tâm can, xương tủy. Họ đã tỉnh dậy sau một giấc mơ hãi hùng, ngay những kẻ đã cam tâm làm Việt Gian theo giặc cũng âm thầm hối hận; họ không ngờ bọn người xâm lăng tàn ác đến mức độ khốc hại như vậy. Trừ có những kẻ đã có bệnh Ma Mộc Bất Nhân hoặc họ có căn cốt làm nô lệ cho người mới điềm nhiên ngồi nhìn ngoại bang chà đạp trên xương máu của chính đồng bào mình. “Nước Mất thì Nhà Tan”, quá khứ đã chứng minh như vậy!.
Tóm lại nhà Minh đã dùng chiêu bài “phù trần” để xâm lăng và đày đọa cả dân tộc Việt. Người dân lúc nào cũng sống trong cảnh đói rét triền miên, đớn đau tủi nhục của một kiếp người bị tước đoạt hết tất cả. Trước tình cảnh đau thương đó Đức Lê Lợi xướng nghĩa một cuộc cách mạng cứu nước đã làm nô nức lòng người, nên mọi nhà đều có người sẳn sàng hăng hái chờ đợi cơ hội đầu quân đánh giặc (xin xem lại bài 1).
3) Theo Bắc Bình Vương, Tiến Đánh Thăng Long:
Tháng 11 năm 1788 Đại Tướng Ngô Văn Sở từ vùng rừng núi Tam Điệp đã cấp tốc báo về Phú Xuân rằng: đại binh của Tôn Sĩ Nghị đã theo lệnh của Càn Long (Kiền Long) dưới danh nghĩa “cứu nhà Lê” đã đem binh tiến vào Thăng Long với khí thế rất mạnh. Quay sang kẻ tả hữu Quang Trung Nguyễn Huệ nói rằng: “Có gì phải hốt hoảng, chúng vào đất nước Việt ta là chỉ mua lấy cái chết mà thôi!”. Để tranh lấy cái “Thế”, đoạt nhân tâm. Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân; Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngài cho lệnh chuẩn bị xuất quân. Từ giã Bàn Sơn (Bàn Sơn vùng phía Nam núi Ngự Bình) cùng với đoàn quân Thủy, Bộ; Bắc Bình Vương rầm rộ tiến quân ra Thăng Long.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân đại quân của Bắc Bình Vương đã đến vùng rừng núi Nghệ An, tại đây Ngài cho dừng quân và tuyển mộ thêm binh. Dân xứ Nghệ lại một phen nô nức đầu binh diệt giặc. Binh mới hơn 100 nghìn (100,000) và hơn 350 tượng binh (Chiến Tượng). Trước mặt toàn thể quân đội Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với lời cả quyết và ý chí sắt thép Ngài dõng dạc tuyên bố:
1) Quân nhà Thanh đã sang đất nước chúng ta với mục đích xâm lăng, cướp nước và hiện chúng đang chiếm đóng kinh đô Thăng Long.
2) Trung Hoa; Việt Nam là hai vùng đất khác nhau mà trời đất đã phân biệt rõ ràng như vậy. Nay quân Thanh đã bạo ngược xâm lấn nước ta, nên toàn dân phải nghĩ đến sự quật khởi để cứu nước.
3) Tổ tiên Việt chúng ta đã bao đời chứng mình rằng: chỉ có sự chiến đấu mới có thể sống còn với bọn “nội thù” và bọn ngoại xâm phương Bắc. Từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế đến nay đã nhiều lần tổ tiên ta đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước Việt.
4) Triều đình Mãn Thanh đã không chịu học bài học các tiền triều của họ trong quá khứ, lần này nhà Thanh sẽ chuốc lấy thảm bại, và họ sẽ học được bài học lịch sử này. Nay toàn dân phải cùng nhau dốc lòng tiêu diệt bọn xâm lăng và bọn Việt Gian phản trắc.
Tiếng nói của Bắc Bình Vương vang dội như chuông ngân giữa đám ba quân với lời nói hùng hồn quyết tâm đã làm nức lòng bao chiến sĩ Việt. Và với một chiến dịch hành quân thần tốc mà các binh gia cổ kim ít có người nghĩ ra cũng như áp dụng. Phương pháp “Rút Đường” kỳ dị này của quân đội Tây Sơn đã chuyển quân thật thần tốc ngoài sự dự liệu của đối phương (có người lại đặt giả thuyết cho rằng: “Hai người dùng cán khiêng Một người”. Nhưng theo Vân Anh thì đi hành quân trong rừng núi chứ không phải đi ngoài đường lộ thênh thang như ngày nay, thì 3 người cùng đi có lẽ còn khỏe hơn là 2 người khiêng 1 người. Như trên có nói đây là phương pháp “Rút đường” của người xưa vẫn còn lưu truyền đến ngày hôm nay).
Với một phương pháp chuyển quân đặc biệt và những thế đánh như vũ bão. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với chiến thuật “Trung Ương Đột Phá” đã đẩy hai mươi lăm (25) vạn binh (không phải 20 vạn) hùng mạnh của nhà Thanh vào thế bị động (thế thủ), mỗi trận đánh phải giải quyết gọn; nhanh, nên khiến quan quân nhà Thanh không có thời gian để kịp xoay trở tìm thế trận phản công.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân, đại binh của Bắc Bình Vương đã tiến đến vùng núi Tam Điệp là nơi tiếp giáp giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình, Ngài ra lệnh dừng quân chỉnh đốn binh mã để chuẩn bị “Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị”. Theo địa thế thì chung quanh Thăng Long (Hà Nội bây giờ) là vùng đồng bằng, không có nơi hiểm yếu để giữ, vì vậy địa thế Thăng Long bốn mặt đều có thể là chiến trường do đó rất tiện lợi cho thế trận “Nội Công, Ngoại Kích” (bên trong đánh ra, bên ngoài đánh vào) mà Bắc Bình Vương đã dự liệu.
Năm Quang Trung thứ Tư; biết thế nào cũng có việc binh biến giữa Việt và Mãn Thanh. Vua Quang Trung đã ngầm hạ lệnh cho các “chùa” (kiểu chùa đời nhà Minh có nói trên) phải giao nộp đồng để đúc tiền làm rộng tài nguyên và rèn binh khí. Các “sư, sãi” không đủ đức độ thì cho hoàn tục và trở về nguyên quán, hay xung vào các đội dân binh lo cho việc quốc phòng khi có biến, các “chùa” không hợp với văn hóa Việt, thì phải bị phá bỏ để trả đất lại cho “Hương Điền” và phát đất ra cho dân cày cấy thu hoạch lương thực để nuôi binh. Vua Quang Trung rất chú trọng đến việc kinh tế và thương mại, nên Ngài cho lập “Nha Hàng” với mục đích đưa dân thương buôn sang các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây để “buôn bán” với người Tàu.
Từ các tổ chức thương buôn này Nhà Tây Sơn đã âm thầm ra lệnh cho “mật binh” (một loại quân tình báo kinh tế ngày nay) phải yểm trợ tối đa cho các tổ chức “Thiên Địa Hội” khắp nơi trên nước Tàu (“Thiên Địa Hội” một đảng chính trị của tôn thất nhà Minh lập ra để chống lại triều đình Mãn Thanh. Sau khi đánh bại nhà Thanh, triều Tây Sơn có cho một số thành viên Thiên Địa Hội được sang Việt Nam lập nghiệp ở vùng miền Trung, ngày nay gọi họ là người Minh Hương), để thâu tóm tin tức, cũng như gây xáo trộn triều đình Mãn Thanh, cơ quan tổ chức bí mật Thiên Địa Hội này cũng mong muốn xoay đổi thời thế. Các tay võ tướng nhà Minh đa số thuộc giòng giống người Hán nên võ nghệ họ cao cường, họ hoạt động nhiều nhất ở vùng Vân Nam, Tứ Xuyên. Triều đình Tây Sơn đã ngầm lệnh cho các “mật binh” đã trợ lực và giúp đỡ cho lực lượng Thiên Địa Hội này, nhiều lần nổi lên đánh phá các trạm binh và nhiều nhất là ở các vùng biên thùy Việt - Hoa, những tuyến lộ giao thông ở phía Đông Nam Trung Hoa.
Đêm 30 Tết năm Mậu Thân sang Kỷ Dậu (1789), trời tối mịt mù quân Tây Sơn âm thầm vượt qua bến đò Gián Khuất, tướng nhà Lê là Phùng Hoàng Nghĩa đang giữ trấn Sơn Nam (Nam Định) hoảng sợ đem quân chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liên tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng hoảng vía trốn chạy đến trấn Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, thì bị phục binh của Đô đốc Long vây bắt trọn. Mồng 1; mồng 2 Tết năm Kỷ Dậu, các trấn khác cũng rơi vào tình trạng tương tự. Mất liên lạc; các trấn không gởi tin về, quân Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long xem như “mắt mù, tai điếc!”.
Mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu nửa đêm quân Thanh đang ngủ kỹ trong đồn Hà Hồi. Tiếng loa, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng gào thét bỗng nổi lên, như muôn tiếng thiên binh vạn mã từ trên trời cao ập xuống, khủng khiếp tựa như trời long đất lở. Quân nhà Thanh không còn hồn vía nên hạ lệnh kéo “cờ trắng” quy hàng. Quân Tây Sơn lấy đồn Hà Hồi không tốn một mũi tên.
Phàm khi quyết định một cuộc chiến thắng hay bại phần nhiều do quân tình báo, gián điệp có giỏi; có làm tròn công tác được giao phó hay không!, khi gởi các tay tình báo đi ra ngoài (hay ra nước ngoài), đã không có tin vui tin về, mà còn bị đối phương vây bắt (bị lật mặt nạ ăn cắp) trọn nhóm, và khi đã bị bại lộ; thì bằng cách này hay cách khác phải khai báo công tác của mình đang thi hành. Như vậy thì cả một kế sách phải lãnh lấy sự thất bại. Tựa như Cộng sản ngày nay đã không còn các nhân viên tình báo cũng như gián điệp giỏi. Vì kế sách hoàn toàn đã bại lộ, các đạo quân gián điệp hải ngoại mặc dù đã được quan thầy (Mỹ Gian) tạo điều kiện giúp đỡ từ: dàn cảnh, cài người, rỉ tai, cho đến cung cấp các phương tiện tiền bạc cũng như nhân sự, (riêng nhân sự thì rất nhiều vì chúng đã nằm ở Mỹ này rất lâu) để chúng “rặn ra thơ”; “nặn (g) ra thợ”. Nhưng cuối cùng bọn này cũng chỉ là một lũ ăn hại đái nát nên chúng không những không thể “xào” hay “xạo” nên tích sự gì; mà còn bị đối phương gài bẫy lật mặt một cách nhục nhã, bao nhiêu kế sách của Hà Nội và Bắc Kinh ở hải ngoại đều bị bại lộ. Từ đó đến nay mồm chúng câm như Hến. Tác giả tập thơ Vô Đề với “công trình làm việc trong suốt hai mươi năm trời”, ông đâu có thể dễ dàng bị “gài bẫy” và lộ diện một cách lộ liễu như vậy!.
Rạng sáng ngày mồng 4 Tết năm Kỷ Dậu đồn Ngọc Hồi lại thất thủ, tàn binh nhà Thanh đã chạy tản mác khắp nơi. Tôn Sĩ Nghị đã được quân cấp báo đồn Ngọc Hồi và Điền Châu đã bị hạ và quân Tây Sơn đang tiến vào các cửa ô bao vây Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin thất kinh mất cả tinh thần, nên ngựa không kịp đóng yên, Nghị cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà để chạy sang Bắc Ninh, các quân; tướng nhà Thanh ở các doanh trại cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị, quá đông người chạy trên cầu phao cùng một lúc. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặc cầu phao; tướng sĩ bị rớt xuống sông hết cả, xác người chết làm tắc nghẽn cả giòng nước, trong số chết này có tiến sĩ võ khoa phó tướng Lý Hóa Long đi đoạn hậu để chận đường truy đuổi của quân Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị kinh hãi chạy đến Phượng Nhỡn, nghe báo tin từ phía Đông quân Tây Sơn đang đánh sang. Hốt hoảng Nghị cùng kẻ thủ túc (đội cận vệ) đã vứt bỏ cả Sắc thư, Cờ hiệu, Lệnh bài, Ấn tín để dễ dàng chạy thoát thân.
Vua Quang Trung đã liệu trước nên Ngài đã đặt các toán binh dàn sẳn từ vùng Thanh Trì sang đến Hà Đông, từ Đại Áng đến Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị quân Tây Sơn phục kích và bắt sạch. Thừa thắng tiến về Thăng Long, quân Tây Sơn hạ đồn Văn Điển và Yên Quyết, các tướng nhà Thanh như: Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng và một số chiến tướng khác đã bỏ xác ngay tại chiến địa. Cùng thời gian đó quân Tây Sơn của Đô đốc Long và Tướng Đặng Tiến Đông đã vây kín Khương Thượng. Sầm Nghi Đống đã cố gắng cầm cự trong tuyệt vọng, vì không binh viện không đạn dược, nên Sầm Nghi Đống phải bỏ thành Khương Thượng mà chạy. Tướng Đặng Tiến Đông đem quân theo bủa vây khắp các ngã, sau cùng kéo tàn binh chạy về dưới chân núi Loa, Đống trốn ra cái Gò thắt cổ trên cành cây Đa, nên người ta gọi nơi này là “Gò Đống Đa” (Đống thắt cổ trên cành Đa - Gò là một ụ đất nhỏ).
Sau này có dịp đi ngang qua “Gò Đống Đa”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có làm 4 câu thơ mỉa mai rằng:
- Ghé mắt trông ngang “thấy biển” treo
- Kìa đền “ông Đống” đứng cheo leo
- Ví đây “đổi phận làm” trai được
- Thì “sự anh hùng” há bấy nhiêu.
Khuya ngày mồng 4 rạng sáng mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung cho lệnh thu quân lương tập trung vào một khu rồi cho đốt sạch, ngồi trên chiến tượng vua Quang Trung cổ quấn khăn vàng, vai khoát chiến bào màu đỏ dẫn quân xung lên phá đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng chiến tượng khi gặp chiến mã lại rống lên từng hồi. Ngựa hoảng loạn tan hàng ngũ bỏ chạy. Trời còn tối quân Thanh lại bắn thuốc súng như pháo nổ khói tỏa mịt mù. Quân Tây Sơn tiến lên trong lằn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước vỡ bờ. Trong đồn Ngọc Hồi quân Tây Sơn và quân nhà Thanh dùng đoản đao đánh cận chiến với nhau. Hầu đẳng Thị vệ Phó tướng Hình Đôn Hành đã bỏ xác tại đây. Lớp này ngã thì lớp khác xông lên. Đao kiếm, sắt thép chạm vào nhau cộng với tiếng thét, tiếng la của những chiến binh hai phía ngã gục, đã tạo thành những âm thanh man rợ, hãi hùng như từ cõi âm ty nào đó vọng về. Giữa chiến địa thân người ngã xuống nằm ngỗn ngang như rạ, tiếng rên la, tiếng khóc than, tiếng gào thét. Mùi máu tanh, mùi thây người bị cháy vì súng Hỏa Hổ (một thứ súng rất lợi hại của quân đội Tây Sơn thời đó), mùi thuốc súng, cả thành Thăng Long như chìm trong biển lửa.
Trong bóng tối mập mờ; các chiến binh Tây Sơn chỉ là các bóng đen nhào lộn lăn xả vào trong một rừng gươm đao, họ đâm chém tới tấp. Tiếng súng nổ, tiếng địa lôi vang động cả một không gian đen dầy. Giữa chiến địa muôn nghìn tiếng gào thét rên la chen nhau giữa tiếng trống thúc quân, tiếng chiên xung kích, tiếng kèn lâm trận. Một cảnh tượng vô cùng kinh khiếp diễn ra ngay chiến địa. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng, cuộc chiến mỗi lúc lại thêm ác liệt. Quân Thanh chịu không nổi trước sức tấn công quyết tử của các đội tinh binh Tây Sơn, cuối cùng quân Thanh phải bỏ chiến địa mà chạy. Do mất phương hướng (đốt khói quá nhiều) nên quân Thanh dẫm nhầm vào các địa lội do chúng chôn từ trước, mỗi tiếng nổ là tướng sĩ nhà Thanh thân thể tan như xác pháo. Cuộc quyết chiến ác liệt kéo dài từ nửa đêm đến gần sáng thì chấm dứt, để lại chiến trường ngỗn ngang xác chết của quân Thanh không còn nguyên vẹn, máu người chảy đóng thành vũng. Thật là một cảnh tượng kinh khiếp như chưa bao giờ có trên thế gian này.
Khoảng 4 giờ chiều ngày mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu vua Quang Trung cùng đại binh Tây Sơn và 80 chiến tượng tiến vào Thăng Long, chiến bào đỏ của Bắc Bình Vương đã đổi sang màu đen vì hơi khói và thuốc súng. Vua Quang Trung làm lễ khao binh sau khi chiến thắng nhà Thanh và giải quyết xong vấn đề Bắc Hà, mọi việc định đoạt Ngài giao lại cho Văn thần Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, và Võ tướng Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích rồi lên đường về Trung. Núi Nùng sông Nhị đồng loạt nổi lên tiếng hoan ca như đưa tiễn người anh hùng dân tộc trở lại Tây Sơn.
Các điều viết ra ở trên đã cho chúng ta thấy lịch sử mấy trăm năm trước đang tái diễn, bọn Trung Cộng và bọn Việt Gian Cộng sản ngày nay đang rập khuôn sự cai trị hà khắc của bọn nhà Minh, nhà Thanh đối với nhân dân Việt Nam. Sự bất tài của bọn Việt Gian Cộng sản cũng như sự kiệt quệ thất nhân tâm của bọn cầm quyền Trung Cộng ngày nay cho chúng ta thấy rõ rằng: Cộng sản (nói chung) không thể tồn tại mãi trên sân khấu chính trị của đất nước Việt Nam hay Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Mọi nền móng, cơ cấu của cái nôi Cộng sản đã mục nát (cứ nhìn nước Nga ngày nay là hình ảnh rõ nhất) và tan rã từ năm 1989 (đúng 200 năm sau ngày vua Quang Trung đại thắng quân Thanh 1789 - 1989). Nay thời đã thay; thế đã đổi thì làm thế nào tập đoàn Cộng sản Việt và Cộng sản Tàu lại tránh khỏi bị sụp đổ?!.
Người dân của hai chế độ Cộng sản (Việt - Hoa), họ bị hà khắc, bóc lột đến tận xương, cho nên họ phải tự võ trang và tự đứng dậy để hỏi tội tập đoàn Việt Gian và Tàu Gian Cộng sản. Chế độ của Cộng sản Việt Nam nói riêng cho dù muốn hay không, thì cũng đến lúc chúng phải bị toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước tiêu diệt chúng bằng võ lực. Nếu chúng cứ mãi bám víu vào quyền lực để bóc lột người dân Việt, thì cái chết có lẽ còn thê thảm hơn. Con thuyền quốc gia Việt Nam không thể mãi trao cho các tay lái ngu dốt, ù lì, bất tài và bất xứng, sinh mạng của hơn 90 triệu người dân Việt Nam trong và ngoài nước càng không phải là một trò đùa để cho bọn Việt Gian Cộng sản đem ra làm trò tiêu khiển hay dùng đó như một lợi khí để trao đổi, buôn bán với các thế lực ngoại bang. Vân Anh thiết nghĩ các nhà lãnh đạo của các quốc gia “văn minh” phương Tây cũng nên hiểu rõ như vậy, để con “đường đi” (policies) của quốc gia họ ngay bây giờ và trong tương lai không bị “nhầm lẫn” một cách đáng tiếc!.
Trong tương lai nếu tình hình chính trị cho phép, Vân Anh sẽ có những loạt bài tố cáo tội ác của bọn Tàu Gian từ vợ chồng Nhiếp Quế Sương, tài phiệt Khổng Tường Hy, Tôn Văn và cho đến bọn Tàu Gian Cộng sản hôm nay, họ đã bán đứng đất nước Việt Nam và dân Việt như thế nào. Ngày nay giữa năm 2012 cũng còn hàng vạn “trí thức” người Việt trong nước và hải ngoại vẫn chưa biết rõ bộ mặt gian ác của những tên Tàu Gian nói trên như thế nào. Nhất là bọn Việt Gian trong nước vẫn ôm chân “mẹ” Trung Cộng để hòng chia chác xương, máu người dân Việt thêm nửa. Thiết nghĩ người Trung Hoa từ miền Nam sông Dương Tử chạy về phía Nam, họ cũng là anh em cùng giòng giống Bách Việt như chúng ta, nên chúng ta phải có bổn phận nói lên sự thật của lịch sử để bảo vệ giống nòi Bách Việt nói chung.
Một điểm quan trọng nửa mà Vân Anh muốn chia sẽ với quý đọc giả là: Hơn 500 năm trước ở đâu đó trên nước Việt, môn phái Bạch Vân (hiện đang còn truyền nhân) đã có nói đến sự trở về nguồn của lớp Hậu Duệ nhà Lý, nhà Mạc, sự trở về của các dân tộc phía Nam sông Dương Tử và các bộ tộc Bách Việt trong vùng Động Đình Hồ. Ngày nay sự thật này đã bắt đầu hé lộ cho chúng ta thấy. Bằng chứng hiển hiện nhất là con cháu nhà Lý từ Đại Hàn đã về nước. Khoa khảo cổ thế giới vào tháng Sáu (June, 2012) vừa qua cũng đưa ra kết luận: “khoảng 40,000 (40 nghìn) năm trước, giống dân Việt Nam (ngày nay) đã xuất từ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (vùng Hà Nội bây giờ) đi ngược lên phía Bắc, và 20,000 (20 nghìn) năm sau đó đã trở thành người Trung Hoa và các sắc tộc vùng Trung Nguyên ngày nay như chúng ta thấy. Điều này Vân Anh không dám lạm bàn trong một bài viết ngắn này, mà chỉ viết ra những gì đã được khoa khảo cổ học của thế giới vừa mới thông tin như vậy.
Từ năm 1945 cho đến hôm nay máu của hàng chục triệu người dân Việt đã đổ ra cho mục gì?!, và cho ai?!, các tập đoàn tài phiệt nào trên thế giới đã thủ lợi trên xương máu của hàng chục triệu người Việt Nam vô tội trong mấy mươi năm qua?!. Thời điểm này trở đi cho dù Mỹ và phương Tây có muốn hay không, thì xã hội Việt Nam hiện nay chắc chắn phải được thay đổi bằng một cuộc các mạng bạo lực như đã nói. Hiện nay những người cầm đầu về “chính trị” trong nước thật quá kém cỏi, những người cầm quyền về quân sự lại càng bất tài hơn. Trung Cộng đã thật sự làm chủ đất nước Việt Nam, mà hàng bao nhiêu trí thức trong nước đã và đang khoanh tay cúi đầu chịu lệnh của bọn giặc và bọn Việt Gian!. Ở hải ngoại thì cũng không có gì khác cho lắm, cũng với những tên Việt Gian tranh nhau sân khấu để diễn tuồng “chính trị” như từ trước đến nay, cũng những tên thầy dùi cùng với những cái đầu đặc sệt như ngày nào. Cũng vẫn một số tên tự vỗ ngực cho mình là “học giả”, “trí thức”, nhưng lại bất tài và bất lương một cách bệnh hoạn, cũng những tên hoạt đầu chính trị chỉ chuyên làm theo các chỉ thị của quan thầy Nga, Tàu, Mỹ, Pháp ..v.v..
Với những phần tử mấy mươi năm qua chỉ chuyên làm băng hoại niềm tin của người Việt như trên. Thì ngược lại những phần tử trí thức thật sự yêu nước thương dân, họ đã và đang âm thầm làm việc bất kể ngày đêm, dứt khoát đặt “Tư Tưởng Dân Tộc” lên hàng đầu và quan trọng nhất là các hoạt động của họ thật kín đáo. Chúng ta phải chú tâm đến các “cơ sở hạ tầng” nào của (hai tập đoàn Cộng sản Việt và Tàu) chúng, mà ta cần phải phá vỡ trước khi có mật lệnh đột biến. Các cơ sở buôn bán “chạp phô” của người Tàu trên đất Việt là các cơ sở cung cấp lương thực cho quân ngoại nhập Tàu ngay trên đất Việt. Các kho chứa lương thực, thực phẩm của tập đoàn Việt Gian Cộng sản là nơi cung cấp và cung ứng lương thực, nhiên liệu cho lực lượng “quân sự” của tập đoàn Cộng sản Bắc Kinh và Hà Nội, để trấn áp người dân Việt khi tình hình biến loạn.
Muốn hóa giải các phương pháp nói trên, thì trước nhất các kho chứa võ khí cần phải được mở cửa cho người dân Việt có phương tiện để họ tự vệ hoặc để tấn công quân ngoại nhập Trung Cộng, phải đề cử những thành phần có uy tín với dân (không phải với đảng) trong thôn xã để giữ vững an ninh xã hội, cũng như bắt giữ các thành phần cần phải bắt giữ, nhất là bọn chuyên làm Việt Gian tay sai cho ngoại bang, bọn này rất nguy hiểm cho sự ổn định của xã hội Việt Nam ở bất cứ thời điểm nào. Chúng ta phải quyết tâm trừ khử bọn Việt Gian chuyên làm tay sai cho ngoại bang để trong sạch hóa đất nước Việt. Phải 30 năm sau hay là từ năm 1945 - 1975 toàn dân Việt mới nhìn thấy tập đoàn Việt Gian Cộng sản do tên Hồ Chí Minh cầm đầu chỉ là một tổ chức điêu ngoa, ma giáo, lừa phỉnh tuyên truyền bịp bợm, chúng chỉ là đám Việt Gian chuyên làm tay sai cho Nga, Tàu. Các đảng viên Cộng sản lầm đường phải ý thức được đất nước và dân tộc là trên hết, chứ không phải “đảng” Cộng sản. Nay Đảng Cộng sản không còn nửa thì tin vào đâu?!.
Kết:
Đời sống mỗi cá nhân thì hữu hạn; mà đời sống của xã hội loài người thì vô hạn. Cho nên muốn chống lại chủ trương duy lợi nhuận của Cộng sản, người ta phải đề cao chữ Nhân và lấy con người (không phải vật chất) làm gốc, thiếu chữ Nhân là chối bỏ con người, chối bỏ có nghĩa là phá hỏng xã hội mình đang sống. Tàn phá xã hội mình đang sống là Tự Tàn Phá Chính Gia Đình và Bản Thân Mình. Khi đã ý thức được như vậy, thì người ta phải sống dung hòa giữa tinh thần và vật chất, như sự tương đồng giữa đôi cánh của con chim. Góp tay thực hiện một xã hội hài hòa là chúng ta đã hướng cả tâm trí của mình vào điều Chân; Thiện, Mỹ. Chân, Thiện, Mỹ xác nhận giá trị nền tảng của con người. “Nền tảng xã hội” là lý tưởng đưa con người đến đời sống toàn diện hơn. Đời sống chân, thiện, mỹ là đời sống không ở đâu xa xôi mà là đang ở đây, tại đây, ngay trong cõi đời chúng ta đang sống này. Vì mơ tưởng và tìm kiếm những điều không có thật là nguyên nhân gây khổ nạn cho biết bao thế hệ con người từ trước đến nay.
Hiểu được như vậy, đời sống dung hòa được giữa vật chất và tinh thần, tìm cách thực hiện một đời sống thích hợp với thực tế giữa bản thân, gia đình và xã hội con người. Nhận thấy lý thuyết Tư bản và Cộng sản cũng chỉ là những lý thuyết kinh tế suông và đã thật sự thất bại trong việc mang lại tự do, bình đẳng cơm no áo ấm cho con người và nhất là giá trị chân thực cho con người. “Là người, Làm người và Thành người” là lý tưởng nhân bản, nhân tính trong chủ thuyết Nhân Chủ. Triết Lý Nhân Chủ sẽ tháo gỡ các bế tắc cho xã hội Tư bản cũng như Cộng sản. Tâm trong; Óc sáng người viết luôn có những ước mơ tốt lành hơn cho các thế hệ sau này. Những đóng góp bây giờ giúp một phần nào cho các thế hệ đi sau, từ đó sẽ dễ dàng cho công cuộc phục hưng đất nước Việt.
Để kết thúc bài viết này mời quý bạn đọc thưởng thức Bốn câu thơ dưới đây:
- Đêm bão giật, lửa lòe, muôn tiếng sét
- Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm
- Nước tự trời cao đổ xuống ầm ầm
- Cả rừng núi lồng lên, gầm quát thét.
(*) Thương vạn vật ở đây xin hiểu là khác với sự “thương chó, thương mèo” một cách trơ trẽn, lố bịch. Họ bỏ tù con người vì một con chó kiểng- chuyện này xảy ra ở thành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳ. Tòa án thành phố này đã ra lệnh phạt 3 năm tù ở cho một anh kỹ sư hảng điện toán IBM, vì “tội” lỡ tay quăng con cho ra ngoài đường. Sau khi ra tù anh ta còn bị khép vào “thành phần nguy hiểm cho xã hội”. Ở các xứ Tây phương “văn minh” Âu Châu, có nơi họ mở cả một nhà hàng sang trọng chỉ để Phục Vụ Cho Chó Và Mèo. Đau Đớn Nửa Là Họ Dùng Con Người Để Phục Vụ Cho Súc Vật. Còn con người thì họ ghét bỏ, coi khinh và bán đứng, nhưng không phải họ bán đứng một vài người, mà họ bán cả một dân tộc của người khác, cũng bởi “đám” người này da họ màu vàng và họ là người Việt Nam!!!.
Post a Comment